(TG) - Nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ công tác phân luồng học sinh sau
trung học cơ sở (THCS), ngày 14-5-2018 Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 522/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định
hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025”.
Đề án xác định mục tiêu đến năm 2020, phấn đấu ít nhất 30% học sinh tốt
nghiệp THCS tiếp tục học tập tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đến năm
2025 là 40%. Tuy nhiên, căn cứ vào thực tế khách quan và chủ quan, mục
tiêu này có nguy cơ “bất khả thi”.
CHỈ CÓ KHOẢNG 8-10%
HỌC SINH SAU THCS
ĐI HỌC NGHỀ
Hiện nay, học sinh sau
THCS được phân vào 4
luồng: 1) Học tiếp lên
trung học phổ thông (THPT); 2)
Học bổ túc THPT; 3) Học nghề
hoặc trung cấp; 4) Tham gia thị
trường lao động.
Công tác phân luồng học
sinh sau THCS luôn được Đảng
và Nhà nước hết sức quan tâm,
nhưng mục tiêu tăng tỷ lệ học
sinh sau THCS đi học nghề đến
nay vẫn còn rất hạn chế. Vậy
nguyên nhân do đâu?
Chiến lược phát triển giáo
dục giai đoạn 2011-2020 đề ra
mục tiêu là học sinh sau THCS
vào giáo dục nghề nghiệp (GDNN)
chiếm tỷ lệ 30% vào năm 2020,
nghĩa là đến năm 2020, quy mô
học sinh tốt nghiệp THCS vào hệ
thống GDNN là khoảng 320.000
-330.000 học sinh. Đây là nhiệm
vụ rất nặng nề đối với hệ thống
giáo dục nghề nghiệp.
Vì tỷ lệ khá lớn học sinh sau
THCS vào học THPT, nên đáng
ra, các trường trung cấp chỉ
cần tuyển học sinh sau THCS
để đào tạo là phù hợp, thì đã
phải tuyển học sinh sau THPT
mà không tuyển học sinh sau
THCS. Như vậy, số học sinh tốt
nghiệp THCS không được vào
THPT (chiếm khoảng 15% hàng
năm) sẽ không có cơ hội học tiếp
các trường trung cấp. Tình trạng
này càng làm trầm trọng thêm
việc học sinh sau THCS không
muốn đi học nghề mà tìm mọi
cách để học THPT.
Từ thực tế về công tác phân
luồng trong nhiều năm qua, có
thể nói rằng, mục tiêu phấn đấu
đến năm 2020 có 30% học sinh
sau tốt nghiệp THCS đi học nghề
sẽ là “bất khả thi”. Công tác phân
luồng học sinh sau THCS, nếu không có giải pháp mạnh sẽ dẫn
đến cơ cấu nhân lực của nước ta
ngày càng bất hợp lý, không đáp
ứng yêu cầu nhân lực phục vụ
phát triển của nền kinh tế - xã
hội trong quá trình chuyển đổi
nền kinh tế từ chiều rộng sang
chiều sâu và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng.
CẦN NHỮNG
GIẢI PHÁP MẠNH
Để khắc phục những yếu kém
và khó khăn của công tác phân
luồng học sinh sau THCS, cần
thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường công tác
lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước, phối hợp đồng bộ cả
hệ thống chính trị. Phân luồng là
bài toán liên ngành, vì vậy cần
tăng cường sự lãnh đạo của các
cấp ủy đảng, sự quản lý của các
cấp chính quyền và đẩy mạnh sự
phối hợp cùng chung tay thực
hiện công tác phân luồng. Trên
cơ sở đó, xây dựng quy chế, kế
hoạch, gắn kết chặt chẽ giữa các
cơ quan tham mưu của các cấp
ủy đảng với các cơ quan quản lý
nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội, nghề nghiệp... trong
quá trình thực hiện các mục tiêu
phân luồng.
Hai là, đổi mới công tác thông
tin tuyên truyền và truyền thông.
Công tác tuyên truyền vận động
cần được đổi mới từ Trung ương
đến cơ sở, nhằm nâng cao nhận
thức cho các cấp, các ngành và
toàn xã hội về việc phân luồng
học sinh sau THCS. Tập trung
quán triệt, tuyên truyền sâu
rộng các quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà
nước về công tác phân luồng
học sinh sau THCS. Làm rõ chủ
trương phân luồng sau THCS là
một cách lựa chọn phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh của mỗi
cá nhân trong nền kinh tế thị
trường, hướng tới có việc làm,
nâng cao thu nhập, cải thiện
cuộc sống và có cơ hội tăng tiến.
Ngoài việc tiếp tục trang bị học
vấn phổ thông và tham gia lao
động sản xuất, người học còn
có thể đi học nghề phù hợp với
trình độ, điều kiện của mình.
Phân luồng học sinh sau THCS
cũng không phải là ép buộc
những học sinh sau THCS yếu
thế về học lực và hoàn cảnh
kinh tế như một số nhận thức
lệch lạc. Cần phải khẳng định
rằng, đây là tạo ra một phương
thức, cơ hội học tập phù hợp,
có hiệu quả; đáp ứng nhu cầu
được học và nguyện vọng có
nghề nghiệp của người học. Từ
đó, xoá bỏ tâm lý mặc cảm hoặc
kỳ thị đối với những người lựa
chọn con đường đi học nghề sau
khi tốt nghiệp THCS (vào các
trường trung cấp hoặc vừa làm
vừa học theo chương trình giáo
dục thường xuyên).
Các cơ quan chức năng, các
địa phương, nhất là ngành Giáo
dục và Đào tạo, ngành Lao động,
Thương binh và Xã hội cần tích cực phối hợp với ngành Tuyên
giáo và các đoàn thể nhân dân
để làm tốt công tác thông tin
tuyên truyền; giúp mọi người
dân dễ dàng tiếp cận với các loại
thông tin về dạy nghề và nhu
cầu sử dụng nhân lực của xã hội.
Ba là, đổi mới cơ chế chính
sách. Nhà nước cần tiếp tục
nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện
văn bản quy phạm pháp luật về
giáo dục hướng nghiệp và định
hướng phân luồng học sinh sau
THCS; huy động nguồn lực xã
hội trong và ngoài nước tham
gia giáo dục hướng nghiệp, định
hướng phân luồng học sinh
sau THCS; tạo điều kiện thuận
lợi cho học sinh học liên thông
giữa các trình độ đào tạo, lên các
cấp học cao hơn. Bổ sung cơ chế
chính sách khuyến khích học
sinh đi học nghề; hỗ trợ kinh phí
cho học sinh dân tộc thiểu số,
học sinh nghèo, học sinh thuộc
đối tượng chính sách và những
cơ sở giáo dục nghề nghiệp -
đào tạo học sinh sau tốt nghiệp
THCS. Khuyến khích các doanh
nghiệp và đơn vị sử dụng lao
động tích cực tham gia giáo dục
nghề nghiệp và tuyển dụng lao
động ở các cơ sở đào tạo nghề.
Nâng cao trách nhiệm giải trình,
công khai chất lượng của các
cơ sở đào tạo với xã hội, từ đó
tiếp nhận ý kiến của nhân dân
để điều chỉnh mục tiêu, chương
trình đào tạo, cách thức quản trị
nhà trường, tạo sự kết nối tốt
hơn giữa nhà trường với xã hội.
Tiếp tục đổi mới hơn nữa
cơ chế, chính sách tài chính, xã
hội hóa giáo dục. Theo đó, cần
tính đúng chi phí cho mỗi nghề,
trình độ đào tạo. Nhà nước chỉ
đầu tư, hỗ trợ cho những ngành,
nghề quan trọng không thu hút
được người học; hỗ trợ những
đối tượng chính sách. Còn
những ngành, nghề khác, tùy
mức độ để thực hiện chính sách
xã hội hóa; một số đối tượng
khác sẽ được Nhà nước hỗ trợ
kinh phí bằng cách cho vay ưu
đãi; chuyển từ phân bổ kinh phí
thường xuyên sang cơ chế Nhà
nước đặt hàng.
Bốn là, xây dựng đội ngũ giáo
viên đạt chuẩn. Để đội ngũ giáo
viên đủ về số lượng, đạt về chất
lượng, cần tiếp tục tăng chỉ
tiêu, đầu tư và nâng cấp cơ sở
vật chất cho các cơ sở đào tạo.
Đồng thời, tuyển dụng những
người có kinh nghiệm, năng
lực từ các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, sau đó bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm cho họ. Thực hiện
chế độ tập huấn thường xuyên
và định kỳ đào tạo lại đội ngũ
giáo viên. Ban hành tiêu chuẩn
nghề nghiệp và kiểm định chất
lượng đối với giáo viên dạy nghề.
Đồng thời, khuyến khích cán bộ
kỹ thuật, kỹ sư, người lao động
có tay nghề cao tại các cơ sở sản
xuất kinh doanh, các trung tâm
khuyến nông, lâm, ngư, những
nông dân sản xuất giỏi tham gia
dạy nghề. Bên cạnh đó, cần dành
thời gian thỏa đáng để giáo viên
dạy nghề trực tiếp tham gia hoạt
động ở các doanh nghiệp để vừa
nâng cao tay nghề, vừa nâng cao
thu nhập. Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý, giáo viên kiêm
nhiệm làm công tác giáo dục
hướng nghiệp và định hướng
phân luồng trong trường phổ
thông. Mở rộng khung lương
giáo viên dạy nghề giỏi tương
đương với những cán bộ giảng
dạy có trình độ cao.
Năm là, tạo sự liên thông kiến
thức cho học sinh học nghề. Xây
dựng chương trình của các cấp
học bảo đảm sự liên thông theo
Khung trình độ quốc gia Việt
Nam, tạo điều kiện cho người
học có thể học suốt đời nhằm
không ngừng nâng cao trình độ,
dễ dàng chuyển đổi nghề, nhất
là một số nghề trong cùng nhóm
ngành. “Mềm hóa” quá trình đào
tạo và đa dạng các hình thức đào
tạo phù hợp với trình độ học
vấn, điều kiện kinh tế và nhu
cầu học nghề của người học; tích
hợp lý thuyết với thực hành, học
đi đôi với hành.
Sáu là, đổi mới công tác tư vấn
hướng nghiệp trong nhà trường
phổ thông. Các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp cần tích cực, chủ
động phối hợp cùng với các
doanh nghiệp tham gia vào công
tác tư vấn hướng nghiệp cho
học sinh. Cần đào tạo và tuyển
dụng cán bộ làm công tác xã hội,
thực hiện nhiệm vụ giáo dục
hướng nghiệp và tư vấn nghề
nghiệp. Đổi mới công tác hướng
nghiệp, làm cho học sinh thấy rõ
thế mạnh của mình và nhu cầu
nhân lực của các ngành, nghề;
của các địa phương - nhất là
nơi mình và gia đình mình đang
sinh sống - để chọn ngành nghề
cho phù hợp; hướng học sinh vào con đường phát triển phù
hợp với khả năng và điều kiện
của mình trong tương lai.
Quy hoạch lại mạng lưới,
đầu tư mở rộng quy mô và nâng
cao năng lực hướng nghiệp,
dạy nghề cho các trường phổ
thông, trung tâm kỹ thuật tổng
hợp, hướng nghiệp, trung tâm
giáo dục thường xuyên. Khuyến
khích các tổ chức, cá nhân và
các doanh nghiệp thành lập các
trung tâm hướng nghiệp cho
học sinh.
Bảy là, quy hoạch lại hệ thống
giáo dục và nâng cao chất lượng
đào tạo nghề. Quy hoạch mạng
lưới giáo dục nghề nghiệp theo
hướng không tăng số trường
đại học; mở rộng các trường cao
đẳng và trung cấp, đóng cửa các
cơ sở đào tạo chất lượng thấp.
Phát triển các trường trung học
kỹ thuật; các chương trình giáo
dục, các hình thức dạy và học,
nơi dạy và học, thời gian dạy và
học, đáp ứng nhu cầu đa dạng
của người học. Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin và
truyền thông (ICT), phát triển
và khai thác các tài nguyên giáo
dục mở, từng bước mở rộng
mô hình học trực tuyến, tạo
điều kiện để học sinh và người
lao động tiếp cận miễn phí các
khóa học.
Tám là, đổi mới công tác dự
báo nhu cầu nguồn nhân lực,
nhu cầu đào tạo và giải quyết
việc làm cho người đã qua đào
tạo nhưng đang thất nghiệp.
Xây dựng hệ thống cơ quan làm
công tác dự báo nhu cầu nhân
lực, xác định rõ cơ cấu trình
độ đào tạo theo lĩnh vực, vùng
miền, địa phương. Từ đó, dự
báo nhu cầu đào tạo trên phạm
vi quốc gia, vùng, lãnh thổ, địa
phương. Quy hoạch lại các sàn
giao dịch việc làm, đổi mới nội
dung phương thức của các cơ
quan, đơn vị có liên quan đến
giới thiệu và giải quyết việc làm
cho người lao động./.
PGS.TS. Nguyễn Đắc Hưng
Ban Tuyên giáo Trung ương
_____________________________
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 1/2019