Sau 40 năm, nhìn lại Đại thắng mùa Xuân
năm 1975, nhiều cựu chiến binh, nhà khoa học, nhà nghiên cứu về lịch sử
tiếp tục khẳng định: Đó là kết quả của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nghệ
thuật quân sự ấy thể hiện ở rất nhiều điểm, trong đó quan trọng nhất
vẫn là tận dụng, nắm bắt thời cơ để đưa ra quyết sách kịp thời; là sự
phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các quân chủng, binh chủng, các lực
lượng và trên hết là nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thế trận toàn dân.
Từ nghệ thuật quân sự ấy, quân và dân ta đã làm nên một cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 để giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Cuối tháng 3/1975, đồng chí Lê Đức Thọ từ miền Bắc vào
Nam cùng đồng chí Phạm Hùng và Đại tướng Văn Tiến Dũng thay mặt Bộ
Chính trị trực tiếp chỉ đạo chiến dịch giải phóng Sài Gòn (Ảnh tư liệu)
Căn cứ vào tình hình
thực tế và tương quan lực lượng giữa ta và địch sau Hiệp định Paris năm
1973, đồng thời sự tăng cường chuẩn bị lực lượng cho trận đánh lớn đã
đến lúc chín muồi, ngày 4/3/1975, chiến dịch Tây Nguyên mở màn cho cuộc
Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 và nhanh chóng giành thắng lợi.
Ngay khi chiến dịch này còn đang diễn ra, Bộ Chính trị đã họp, nhận định
thời cơ, chỉ đạo đẩy nhanh tốc độ và hạ quyết tâm giải phóng miền Nam
ngay trước mùa mưa năm 1975. Tiếp sau đó là chiến dịch Huế - Đà Nẵng
toàn thắng. Các đơn vị, các lực lượng, toàn quân toàn dân nắm vững tư
tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị là “nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa,
với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng Tham
mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam nói: “Đây là đánh giá, nhận định
tài tình, kịp thời, sáng suốt của Đảng, của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tư
lệnh khi thấy tình huống diễn ra thuận lợi hơn. Cho nên, trọng điện của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp có câu “thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo,
táo bạo hơn nữa” chính là điều chúng ta xác định đây là dịp chúng ta
thừa thắng xông lên”.
Tất cả đã biến ý chí thành hành động,
huy động mọi sức mạnh của các quân binh chủng, sự chi viện của hậu
phương miền Bắc, sự chuẩn bị của tiền tuyến miền Nam cho chiến thắng.
Quân ta lúc đó có thế trận vững, lực lượng mạnh, gồm các binh đoàn chủ
lực, các binh chủng và lực lượng vũ trang địa phương đông đảo, lực lượng
chính trị quần chúng hùng hậu, sục sôi quyết thắng.
Phó Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Trọng Phúc,
nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng nói: “Sự kết hợp sức mạnh tổng hợp
là cả tổng công kích về quân sự và sự nổi dậy của quần chúng. Đấy cũng
chính là điểm độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Nhờ chiến tranh
nhân dân ấy đã tạo ra sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, quân sự, đấu
tranh ngoại giao, vừa đánh vừa đàm, huy động sức mạnh của quần chúng
thực lực tại chỗ và sự chi viện đắc lực của miền Bắc”.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc
Chính sự phát huy sức mạnh tổng hợp, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc của Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công
nổi dậy mùa Xuân 1975 đã khiến quân địch một lần nữa phải đương đầu với
cả một dân tộc mang trong lòng khát vọng cháy bỏng về hòa bình, độc lập,
thống nhất đất nước. Sau chiến tranh đánh phá miền Bắc năm 1972, sau
Hiệp định Paris năm 1973, hậu phương miền Bắc tiếp tục dồn sức chi viện
cho miền Nam. Bom đạn ác liệt nhưng đường Trường Sơn vẫn tiếp tục mở,
đưa quân đội và xăng dầu, vũ khí, phương tiện… chuẩn bị cho đánh lớn.
Quân thù đã không còn có thể đong đếm
thuần túy về số quân, số phương tiện chiến tranh của mỗi bên. Bởi xét về
tiềm lực quân sự thì Việt Nam lúc đó ở thế yếu hơn nhưng về tinh thần,
về sức mạnh tổng hợp thì hơn hẳn. Dựa vào sức mạnh đó, dân tộc Việt Nam
đã đánh thắng địch từng bước, ở từng chiến lược, từng mặt trận và cuối
cùng là thắng ở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam.
Giáo sư - Tiến sỹ Đinh Xuân Dũng - một
cựu chiến binh đã tham gia vào cuộc Tổng tiến công này chia sẻ: “Kẻ thù
tưởng chúng ta không còn gì, không còn lực lượng để có thể giải phóng
miền Nam, nhưng như một sức mạnh Phù Đổng, từ trong lòng đất, từ trong
lòng dân, hàng trăm xe tăng, xe thiết giáp và cả những quân đoàn lớn từ
Tây Nguyên xuống, từ Quảng Trị vào, từ Nam bộ lên, trong một thời gian
rất ngắn để giải phóng toàn bộ miền Nam”.
Trong cuộc tổng tiến công này, phía ta
đã phát huy tốt hỗ trợ của quần chúng, của thanh niên xung phong cho các
lực lượng quân đội, sự phối hợp tác chiến của các quân, binh chủng, của
quân đội với công an. Các đòn tiến công như vũ bão của các binh đoàn
chủ lực cơ động đã trực tiếp hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần
chúng, tiến tới nhanh chóng tiêu diệt địch, giành chính quyền.
Ông Nguyễn Anh Liên, Chủ tịch Hội Cựu
Thanh niên xung phong Việt Nam kể lại: “Trong chiến dịch lịch sử Hồ Chí
Minh, lực lượng thanh niên xung phong đóng góp vô cùng lớn lao. Khi bộ
đội hành quân giữa đường thì bị thương, phải qua sông qua suối, khi đó
một đơn vị nam nữ thanh niên xung phong ngâm mình dưới dòng nước chảy
xiết để làm cầu phao sống để cáng thương binh đi qua. Đặt việc phục vụ
cho bộ đội chiến đấu thắng lợi là trên hết, không nghĩ gì đến mình”.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1975 diễn ra trong 55 ngày đêm với tốc độ thần kỳ “một ngày bằng 20
năm”. Cuộc Tổng tiến công chiến lược của ta có tầm vóc lớn cả về quân sự
và chính trị, về không gian và lực lượng, đã giành thắng lợi trong thời
gian rất ngắn, ít tổn thất. Tất cả thể hiện tài thao lược, nghệ thuật
chỉ đạo chiến lược xuất sắc của Đảng ta, nhất là trong tổ chức xây dựng
lực lượng, xây dựng thế trận, tạo thời cơ, nắm thời cơ và hạ quyết tâm
giành thắng lợi./.