Luật
Tài nguyên nước (sửa đổi) vừa được Quốc hội khóa XV thông qua đã xác
định công tác bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước là
nhiệm vụ quan trọng.
Trên thực tế, vấn đề này đã
được Đảng, Nhà nước ta chú trọng từ nhiều năm nay. Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã ban hành Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị về "Bảo đảm
an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045".
Cụ thể hóa nhiệm vụ trên, Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Quyết
định số 2846/QĐ-BKHCN phê duyệt Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp
quốc gia giai đoạn đến năm 2030 “Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục
vụ bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước”, mã số
KC.14/21-30 nhằm mục tiêu đến năm 2030, góp phần giải quyết những vấn đề
liên quan đến an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước.
THỰC TRẠNG ĐÁNG LO NGẠI
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên nước khá phong
phú, dồi dào. Tổng lượng nước mặt trung bình khoảng 840 tỷ m3/năm. Với
hơn 7.500 đập, hồ chứa đã tạo nên dung tích trữ nước chủ động trên 70 tỷ
m3. Nguồn nước là sự sống, có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển của
đất nước, sinh kế của người dân.
Do đó, bảo đảm an ninh nguồn nước và
an toàn đập, hồ chứa nước luôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo, đạt được nhiều kết quả tích cực, cơ bản đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đời sống,
sinh hoạt của người dân qua các thời kỳ.
Tuy nhiên, việc phát triển công
nghiệp, đô thị chưa gắn với bảo đảm an ninh nguồn nước, làm suy giảm số
lượng, chất lượng nguồn nước, thậm chí gây mất an ninh nguồn nước. Công
tác bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước còn nhiều hạn
chế. Công tác quản trị nguồn nước còn yếu, chưa hiệu quả. Ý thức, trách
nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, địa phương và người dân trong việc
quản lý, khai thác, sử dụng nước chưa cao; ô nhiễm nguồn nước ngày càng
nghiêm trọng...
PGS. TS. Nguyễn Đăng Tính, Phó Giám đốc Phân hiệu Trường Đại học Thủy lợi
tại Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, vấn đề an toàn do các hồ chứa
nước được xây dựng từ những năm 1970-1980 của thế kỷ XX, đang trong
tình trạng xuống cấp, hư hỏng nặng. Trong khi đó, kinh phí bảo trì, sửa
chữa, nâng cấp, năng lực cán bộ quản lý, vận hành hồ, đập còn hạn chế. Vì vậy, cần nghiên cứu, ứng
dụng công nghệ nâng cao khả năng chống thấm cho đập đất, có những quy
trình ứng phó với các tình huống khẩn cấp các quy mô hồ chứa, đập khác
nhau. Ngoài ra, cần xây dựng hệ thống tích hợp quan trắc, điều hành hồ
chứa thông minh, hoàn thiện quy trình đánh giá an toàn đập, hồ chứa, kết
hợp với chuyển đối số hoàn thiện hệ thống thông tin công trình.
Nhận định an ninh nguồn nước tại Đồng bằng sông Cửu Long (một trong
những khu vực chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu hiện nay) đang có
nhiều vấn đề nghiêm trọng, GS. TS. Tăng Đức Thắng, nguyên Phó
Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam nhấn mạnh, khu vực này đang chịu
ảnh hưởng rõ rệt của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, lún sụt đất.
Vì thế, phát triển Đồng bằng sông Cửu Long cần theo hướng thích nghi có kiểm
soát, chủ động tạo ra chế độ nước hợp lý trên nền chế độ tự nhiên, làm
giảm mức độ rủi ro, bấp bênh trong các hoạt động kinh tế - xã hội, nhất
là ngành nông nghiệp.
Cùng với đó, cần lồng ghép các vấn đề trọng yếu
như bảo đảm an ninh nguồn nước, ngập nước và suy thoái đồng bằng vào
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của khu vực này cũng như của quốc
gia; xây dựng kế hoạch, quy hoạch dài hạn cho các vấn đề liên quan đến
nước như: bảo đảm an ninh nguồn nước; quy hoạch phòng chống ngập nước
cho toàn Đồng bằng sông Cửu Long; bảo vệ chống biển lấn và hệ sinh thái
ngập mặn ven biển. Đồng thời, nghiên cứu giải pháp chủ động cấp nước
ngọt cho các vùng hạn mặn và khan hiếm nước; nghiên cứu tính khả thi của
việc xây dựng hồ trữ nước ngọt trên hệ thống sông Vàm Cỏ để bảo đảm an
ninh nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện biến
đổi khí hậu, nước biển dâng; nghiên cứu đánh giá, dự báo chế độ nước
(mực nước, sóng, chất lượng nước) vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long
phục vụ phát triển thủy sản…
TÌM GIẢI PHÁP TỪ CÔNG NGHỆ
Theo Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, từ năm 2013-2023, liên quan đến nguồn nước, nhiều giải pháp khoa học công nghệ đã
được triển khai trên cả nước như: Công nghệ khai thác, xử lý và cấp nước
sạch thích ứng với điều kiện vùng núi cao, vùng khan hiếm nước; xây
dựng hệ thống giám sát và điều hành lũ trên lưu vực sông Hương, sông Vu
Gia - Thu Bồn hỗ trợ Ban Chỉ đạo phòng, chống thiên tai Trung ương ra
quyết định ứng phó để đảm bảo an toàn công trình đầu mối và các vùng hạ
du; giải pháp mềm trồng cây chắn sóng bảo vệ cho các đoạn đê biển các
tỉnh Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Trà
Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang; công nghệ đê trụ rỗng
giảm sóng kết hợp gây bồi tạo bãi ứng dụng vào thực tiễn thi công xây
dựng ở Cà Mau; xây dựng bộ bản đồ rủi ro ngập lũ theo các kịch bản và
các giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro thiên tai lũ, ngập lụt các khu vực
tập trung đông dân cư, đô thị vùng miền núi Bắc Bộ; xây dựng bản đồ ngập
lụt hạ du, ngập lụt nước dâng do siêu bão cho một số tỉnh ven biển như
Thanh Hóa, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế, Đồng bằng sông Cửu Long…
Các
công nghệ ngăn sông như đập trụ đỡ, đập sà lan, cống lắp ghép đã được
nghiên cứu và ngày càng hoàn thiện, được ứng dụng xây dựng nhiều công
trình ngăn sông lớn, nhỏ trên khắp cả nước như: Công trình chống ngập
cho Thành phố Hồ Chí Minh, các công trình ngăn mặn giữ ngọt ở Đồng bằng
sông Cửu Long và vừa qua là ứng dụng cho công trình Cái Lớn - Cái Bé...
Việc ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh
vực trên giúp tiết kiệm 20% lượng nước tưới, tăng năng suất từ 5 đến
11%, giảm thiểu phát thải khí nhà kính trên ruộng đồng. Các dạng cửa van
lớn, thiết bị, máy bơm đặc thù cho từng vùng phục vụ chống úng, hạn,
cấp nước sinh hoạt, sản xuất cho vùng cao, khan hiếm nguồn nước… cũng
được áp dụng.
Hiện nay, nhiều công nghệ mới đang được các đơn vị nghiên cứu, nhà
khoa học xác định phương pháp tiếp cận và thực hiện như: Nghiên cứu, ứng
dụng, phát triển các công nghệ mới, công nghệ tiên tiến, công nghệ số
trong điều tiết nguồn nước, giám sát đảm bảo an toàn hồ đập, tăng tuổi
thọ công trình, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý vận hành công
trình thủy lợi, phòng, chống thiên tai; nghiên cứu, ứng dụng và phát
triển các công nghệ tiên tiến trong khảo sát, thiết kế, vật liệu mới,
thiết bị, xây dựng và quản lý an toàn hồ chứa, đập, đê sông, đê biển và
công trình phòng, tránh giảm nhẹ thiên tai, phát triển nông thôn…
Cùng với việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới, phù hợp với thực
tiễn, các chủ trương, chính sách đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ
đập chứa nước ngày càng được hoàn thiện. Kết luận số 36-KL/TW của Bộ
Chính trị về "Bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" gồm 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ
yếu, trong đó đưa ra giải pháp “Nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa
học và công nghệ, chuyển đổi số trong bảo đảm an ninh nguồn nước, an
toàn đập, hồ chứa nước”.
Giải pháp này được cụ thể hóa tại Quyết định số
1595/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và một số chiến lược, quy hoạch
như: Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050;
Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn
đến năm 2050; Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Hồng - Thái Bình thời kỳ
2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đều đề cập đến nội dung về bảo đảm an
ninh nguồn nước…
GS. TS. Nguyễn Văn Tỉnh, Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và
Công nghệ cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 “Nghiên cứu khoa học và
công nghệ phục vụ bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa
nước” (Chương trình) cho biết, cụ thể hóa các nhiệm vụ trên của Kết luận số 36-KL/TW,
Chương trình hướng tới cung cấp luận cứ, cơ sở khoa học và thực tiễn để
hỗ trợ xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ
chứa nước. Đồng thời, phát triển, ứng dụng, chuyển giao được các công
nghệ tiên tiến để phát triển, quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn
nước phục vụ dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng -
an ninh, an ninh nguồn nước và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu;
phát triển, ứng dụng và chuyển giao được các công nghệ tiên tiến nhằm
nâng cao mức độ an toàn, hiệu quả quản lý, khai thác đập, hồ chứa nước
và công trình thủy lợi.
Chương trình đã đề ra một số mục tiêu cụ thể
như: 60% số nhiệm vụ có kết quả được ứng dụng hoặc ứng dụng thử nghiệm
thành công; 30% số nhiệm vụ có đơn đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ (sáng
chế, giải pháp hữu ích) được chấp nhận, trong đó 10% số nhiệm vụ có bằng
độc quyền sáng chế hoặc giải pháp hữu ích được công nhận; 20% số nhiệm
vụ có doanh nghiệp tham gia phối hợp thực hiện…
Việc triển khai Chương trình sẽ góp phần giải quyết tổng
thể các vấn đề khoa học và công nghệ liên quan đến an ninh nguồn nước và
an toàn đập, hồ chứa nước như: Công nghệ tiên tiến và giải pháp để phát
triển gia tăng nguồn nước nhằm chủ động ứng phó với nguy cơ, rủi ro mất
an ninh nguồn nước; giải pháp, công nghệ mới, tiên tiến nhằm quản lý,
khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tuần hoàn, giảm thất thoát,
lãng phí nước; tăng hiệu suất, năng suất nước; công nghệ, phương pháp
tiên tiến, hiện đại, thông minh, đề xuất giải pháp mới gắn với đẩy mạnh
thực hiện chuyển đổi số trong quản lý nhằm nâng cao mức bảo đảm an toàn,
khai thác hiệu quả đập, hồ chứa nước…/.
THU PHƯƠNG (TTXVN)