(TG) - Để “xanh hóa” nền kinh tế, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra là
phải đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ, cùng với đó
là nguồn lực tài chính cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao... So với
các vùng, miền khác, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi gặp
nhiều bất lợi hơn cả trong tiến trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền
“kinh tế xanh”.
Những khó khăn, bất cập trong tiến trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền
“kinh tế xanh” ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núic ó nguyên nhân từ xuất phát
điểm về kinh tế - xã hội thấp và những vấn đề liên quan đến nhận thức,
phong tục tập quán... Đặc biệt, những kết quả ban đầu của quá trình thực
hiện mục tiêu “xanh hóa” nền kinh tế rất có thể sẽ tạo ra những “hiệu
ứng ngược” trong thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội
đối với đồng bào.
Vì thế, vấn đề đặt ra là phải nghiên
cứu, triển khai một cách khoa học, cụ thể, có lộ trình nhằm đảm bảo hài
hòa giữa “kinh tế xanh” và xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội trước mắt;
phải khắc phục được những bất cập, thách thức không nhỏ trong lựa chọn
chính sách thực hiện kế hoạch hành động phát triển “kinh tế xanh”.
Mặc dù mục tiêu “chuyển đổi xanh” cho
nền kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được triển
khai lồng ghép trong nhiều chương trình, dự án trong những năm qua. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy, vẫn chưa có nhiều mô hình liên kết sản xuất nông nghiệp theo
hướng bền vững làm cơ sở phát triển hệ sinh thái nông nghiệp tuần hoàn
vùng dân tộc thiểu số và miền núi; hiện tượng sản xuất manh mún, mạnh ai
nấy làm còn rất phổ biến; chính sách và công tác bảo vệ môi trường rừng
con nhiều bất cập...
Để khắc phục những bất cập, nhiều địa
phương câp tỉnh trên cả nước đã ban hành nghị quyết về phát triển kinh
tế, công nghiệp theo hướng bền vững, hiệu quả và thân thiện với môi
trường; khắc phục những “mâu thuẫn” giữa chủ trương phát triển “kinh tế
xanh” và công tác xóa đói giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Những giải pháp cơ bản được xác định là:
Thứ nhất, phải có cơ chế đảm
bảo giải quyết hài hòa “nhu cầu trước mặt” với mục tiêu chiến lược;
khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới, ứng dụng công nghệ hiện
đại, công nghệ cao trong sản xuất, chế biến theo hướng tiết kiệm nhiên
liệu, bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm; tăng
cường đầu tư chế biến sâu, nâng cao giá trị sản phẩm, thực hiện nghiêm
các quy định về bảo vệ môi trường; khuyến khích đầu tư các dự án sản
xuất điện mới, sử dụng năng lượng tái tạo….
Thứ hai, tăng cường tuyên
truyền cả về bề rộng và chiều sâu nhằm giúp đồng bào vượt qua các thói
quen, khắc phục những bất cập như: sản xuất, tiêu dùng ít thân thiện môi
trường; tư duy bảo thủ, ngại tiếp cận và thích nghi với hạ tầng kỹ
thuật, công nghệ hiện đại… Đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao
nhận thức nhằm góp phần “chuyển hóa” năng lực của bộ máy chính quyền cấp
thôn, xã; không ngừng nâng cao ý thức của doanh nghiệp, người dân.
(Ảnh minh họa)
Thứ ba, cơ cấu lại ngành công
nghiệp theo hướng phát triển xanh, thân thiện với môi trường; giảm tỷ
trọng ngành khai thác, tăng tỷ trọng chế biến, chế tạo gắn với đổi mới
công nghệ, bảo vệ môi trường. Tận dụng lợi thế hạ tầng kinh tế - xã hội,
điều kiện tự nhiên, giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc để phát
triển du lịch; quan tâm phát triển đồng bộ, toàn diện văn hóa - xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống, sự hài lòng và hạnh phúc cho nhân dân.
Thứ tư, cơ cấu lại ngành nghề, ưu tiên phát
triển các ngành công nghệ cao, phát thải carbon thấp; công nghệ thân
thiện với môi trường; sử dụng tiết kiệm năng lượng và tài nguyên; phục
hồi tài nguyên và hệ sinh thái trên địa bàn. Việc lựa chọn công nghệ
phải được thực hiện không chỉ bởi các nhà đầu tư, mà trước hết bởi các
nhà quản lý ngay trong giai đoạn thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư
các dự án, bảo đảm không cho đưa vào sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, gây
ô nhiễm môi trường hoặc từ chối chấp nhận đầu tư những dự án thuộc lĩnh
vực có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường.
Thứ năm, chú trọng phát huy vai
trò các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong địa phương và vai trò cộng đồng
trong thực hiện chính sách phát triển kinh tế xanh. Ưu tiên, khuyến
khích các dự án đầu tư sản xuất công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công
nghệ mới, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng và thân thiện với môi trường,
đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới máy móc, thiết
bị, công nghệ cho mở rộng sản xuất, nâng cao giá trị, chất lượng sản
phẩm và sức cạnh tranh trên thị trường…
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác kiểm
tra, giám sát việc lập và chấp hành các yêu cầu theo báo cáo đánh giá
tác động môi trường; theo dõi, kiểm soát chặt chẽ các cơ sở sản xuất có
nguy cơ gây ô nhiễm, nhất là việc xả chất thải ra ngoài môi trường; bảo
đảm sự hài hòa trong phát triển, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động
lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi một cách bền vững./.
MINH HOÀNG