Cuối tháng 4 năm nay, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức “Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa
và Tuần Văn hóa Biển đảo Quảng Ngãi - năm 2013”.
Nhân dịp này, phóng viên TTXVN
giới thiệu về đảo Lý Sơn và đời sống tâm linh của cư dân ven biển và hải đảo
trong nhiều thế kỷ qua, nhất là Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa.
Lý Sơn - Bảo tàng sống động
Lý Sơn tục danh là Cù Lao Ré (theo cách lý giải của dân gian là cù lao có nhiều
cây ré), nằm cách cảng Sa Kỳ khoảng 30km. Những ngày trời trong biển lặng, đứng
trong đất liền có thể nhìn rõ năm ngọn núi gồm Giếng Tiền, Thới Lới, Hòn Tai,
Hòn Sỏi, Hòn Vung trên hòn đảo gần 10km 2 này.
Đảo Lý Sơn vẫn còn lưu giữ dấu tích của người tiền sử cách đây 30 vạn năm trên
các núi Giếng Tiền, Thới Lới. Các nhà khảo cổ cũng tìm thấy hiện vật quý giá của
các nhóm cư dân thuộc nền Văn hóa Sa Huỳnh cách ngày nay khoảng 2.000-2.500
năm tại Xóm Ốc, Suối Chình.
Và trên hòn đảo này, chắc hẳn người Chăm đã từng sinh sống từ lâu đời trước
khi hòa huyết cùng cộng đồng người Việt. Dù là người Chăm đã dần dần tự Việt hóa
hoàn toàn, hoặc một bộ phận di cư sang vùng đất khác nhưng những dấu tích của
nền Văn hóa Chămpa cho đến nay vẫn còn hiện diện ở chùa Hang, miếu Con Bò…
Rồi có lẽ nhờ những thương thuyền qua lại trên Biển Đông mà cư dân trên đảo
Lý Sơn còn sớm tích hợp thêm nền văn hóa Ấn, văn hóa Hoa. Trải qua hàng nghìn
năm hình thành và phát triển, Lý Sơn đã trở thành một bảo tàng sống động về sự
giao thoa giữa các nền văn hóa khác nhau, trong đó văn hóa Việt là cốt lõi. Hàng
trăm di tích cổ xưa dày đặc trên đảo này giúp nhận diện điều đó.
Nhờ sự kiến tạo của tự nhiên mà Lý Sơn cũng là nơi có nhiều thắng cảnh nổi tiếng,
như Giếng Tiền, Thới Lới, Chùa Hang, Chùa Đục, Hang Câu, Cổng Tò Vò, Hòn Mù Cu..
và cả đảo Bé.
Ngoài Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, hằng năm Lý Sơn còn tổ chức lễ đua thuyền
truyền thống từ ngày mùng 4 đến mùng 8 tháng Giêng và lễ hội ở đình làng An Hải,
ở các dinh Thiên Y A Na, các lăng, miếu thờ thần Nam Hải, thần Bạch Mã, thần Ngũ
Hành, thờ Tứ vị thánh nương, thờ Phạm Tiên Điều, thờ U Linh Xà Nữ…
Huyện đảo Lý Sơn hiện có 3 xã An Hải, An Vĩnh và An Bình (Đảo Bé) với dân số hơn
22 nghìn người, sống chủ yếu dọc phía bờ Tây của đảo lớn. Hoạt động sản xuất
chính là bằng nghề đánh cá, các loại hải vật khác trong lộng, ngoài khơi, và đặc
biệt là trồng hành, tỏi.
Tỏi Lý Sơn không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được nhiều nơi trên thế giới
biết đến.
Cội nguồn nghi lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa
Lần giở những trang lịch sử, như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát
yếu, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất
thống chí… của Quốc sử quán triều Nguyễn, lẫn những trang ghi chép của Lê Quý
Đôn trong Phủ biên tạp lục, của Phan Huy Chú trong Hoàng Việt địa dư chí, v.v…
, không khỏi ngạc nhiên khi thấy, cách đây 3, 4 thế kỷ trước các chúa Nguyễn đã
bắt đầu ý thức đến nguồn tài nguyên vô tận, cũng như sớm xác lập chủ quyền lãnh
thổ trên vùng biển Đông của Tổ quốc, mà trước hết đó là tại quần đảo Hoàng Sa.
Hàng năm các chúa Nguyễn đã tuyển 70 dân đinh, giỏi nghề đi biển ở các làng An
Vĩnh và An Hải tại vùng cửa biển Sa Kỳ và sau đó là dân đinh ở phường An Vĩnh và
phường An Hải trên đất đảo Lý Sơn, giương buồm nương theo gió nồm vượt sóng ra
quần đảo Hoàng Sa.
Cứ tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch nhận lệnh ra đi và đến tháng 8 trở về cửa Eo
(Thuận An) để nộp cho kinh thành Huế các loại hải vật quý giá và những thứ nhặt
được trên vùng biển đảo này, như đồ đồng, đồ thiếc…
Theo gia phả, các bản khế ước, các sổ đinh, các văn bản định suất thuế khóa
bằng chữ Hán-Nôm của các dòng họ còn trên đảo Lý Sơn và những gì đang lưu
truyền trong trí nhớ của nhiều bô lão, thì 70 suất đinh định chế đi Hoàng Sa và
sau này cả Trường Sa và các đảo khác, nhiều nhất vẫn là người của làng An Vĩnh
trên đảo Lý Sơn.
70 định suất đó được phân đều cho các tộc họ, không phân biệt tiền hiền hay
hậu hiền, theo nguyên tắc luân phiên nhau và người đăng lính Hoàng Sa thường là
con thứ (vì người con trưởng phải ở nhà lo tế tự).
Đội Hoàng Sa được thành lập chính thức năm nào, lịch sử không ghi rõ, chỉ biết
là vào thời “đầu bản triều”, “hồi đầu dựng nước” (của chúa Nguyễn ở Đàng Trong),
tức sớm nhất có lẽ là vào cuối thế kỷ XVI, hoặc đầu thế kỷ XVII).
Nếu cứ tạm thời xác định, là đội Hoàng Sa, và sau này được củng cố thành Thủy
quân Hoàng Sa (kiêm quản Trường Sa và Bắc Hải, mộ thêm các ngư dân ở Quảng Bình,
Bình Thuận, thuộc các làng Tứ Chính, Bình Cố, Cảnh Dương), họat động liên tục
suốt 3-4 thế kỷ, thì phải có hàng vạn người đã phải vượt qua không biết bao
nhiêu sóng gầm, bão tố để đo đạc thủy trình, cắm cột mốc dựng bia chủ quyền lãnh
thổ và khai thác tài nguyên biển đảo theo lệnh của các chúa Nguyễn và triều
Nguyễn sau này.
Cho đến nay, người dân đất đảo Lý Sơn vẫn còn lưu truyền câu ca:
Hoàng Sa trời nước mênh mông
Người đi thì có mà không thấy về
Hoàng Sa mây nước bốn bề
Tháng hai (ba) khao lề thế lính Hoàng Sa
Câu ca não nùng trên đây là lời tóm tắt số phận của những người đi lính Hoàng
Sa, Trường Sa từ thuở xa xưa ấy - những người được vua Tự Đức gọi là những “hùng
binh”.
Chắc hẳn trong hàng vạn người từng ra đi, không có nhiều người được may mắn
trở về. Hình ảnh những khu mộ chiêu hồn không xác người của các tộc họ Phạm
Quang, Phạm Văn, Võ Văn… trên đảo Lý Sơn còn phơi bày trong nắng nôi đã là một
minh chứng đầy bi hùng trong quá khứ.
Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa là một lễ thức tri ân những lính Hoàng Sa,
Trường Sa thuở xa xưa ấy.
Tri ân những hùng binh cắm mốc, dựng bia chủ quyền
Hàng năm vào tháng 2, tháng 3 âm lịch người Lý Sơn làm lễ khao lề thế lính Hoàng
Sa, hay khao lề tế lính Hoàng Sa. Hầu hết các tộc họ trên đất đảo có người đăng
lính Hoàng Sa, Trường Sa đều thực thi lễ thức này.
Đây là Lễ hay Lệ nhằm khao quân, tế sống, và cả làm các nghi lễ thế mạng cho
những người sắp xuống thuyền đi thực thi nhiệm vụ triều đình giao phó, và mặt
khác, còn để tế lễ và tưởng nhớ những người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa đã khuất.
Không biết lễ thức này có tự bao giờ, nhưng chắc hẳn nó chỉ có khi đội Hoàng Sa
gánh vác sứ mệnh lịch sử thiêng liêng trên biển Đông mà chúa Nguyễn và sau này
là nhà Nguyễn giao phó.
Khao lề chỉ là lệ khao định kỳ hằng năm (như hình thức cúng việc lề mà một số
nơi trong nước còn gìn giữ), nhưng thế lính lại là nghi lễ tế sống, mang đậm yếu
tố phù phép của đạo giáo nhằm thế mạng cho người đi lính, bởi ai cũng biết rằng
người đi lính Hoàng Sa sẽ phải luôn luôn đối mặt với cái chết.
Như những gì còn ghi trong sử sách và lưu truyền trên đất đảo Lý Sơn, thì người
lính Hoàng Sa phải lênh đênh cùng sóng gió trong 6 tháng ròng nhưng chỉ với
những chiếc thuyền câu thì số phận xem như đành gửi theo trời mây và bọt biển.
Để có cơ may xác mình còn được yên lành trôi về bản quán, trước khi ra đi,
mỗi người đi lính Hoàng Sa phải tự chuẩn bị cho riêng mình một đôi chiếu, 7 đòn
tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài. Nếu không may ngã xuống, thì đôi chiếu, những
chiếc đòn tre và các dây mây kia là vật dụng để bó xác người. Người chết sẽ được
thả trôi trên biển cùng chiếc thẻ bài đã được ghi tên phiên hiệu.
Nhưng chắc hẳn cũng chẳng có mấy xác người được may mắn trôi về bản quán.
Những tên tuổi được ghi trong sử sách và những tài liệu Hán Nôm còn lưu trữ, như
Cai đội Võ Văn Khiết (1786), Cai đội Võ Văn Phú (1803), Cai đội Phạm Quang Ảnh (Ất
Hợi, 1815), Chánh thủy quân suất đội Phạm Văn Nguyên (Ất Mùi, 1835), Chánh thủy
quân suất đội Phạm Hữu Nhật (Bính Thân, 1836)…,
Bên cạnh đó là những đà công, thủy thủ được ghi chép trong văn bản cổ của
dòng họ Đặng tại thôn Đồng Hộ, làng An Vĩnh vừa được phát hiện trong năm 2009,
sau 175 năm dòng họ Đặng trao truyền, bảo quản, là những người đã từng được nhà
Tây Sơn, vua Gia Long, vua Minh Mạng cử đi Hoàng Sa, kiêm quản Trường Sa không
phải chỉ tìm kiếm hải vật, sản vật, đo đạc thủy trình, tuần phòng trên biển đảo,
mà còn cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (tiêu
biểu là Phạm Hữu Nhật) hầu hết đều là những người đã không có cơ may trở về.
Tuy biết khó có cơ may trở về, nhưng con người vẫn phải hy vọng, dù hy vọng mỏng
manh. Như để cứu vớt niềm hy vọng ấy, trước khi ra đi, cùng với việc tộc họ bàn
soạn lễ vật sanh tươi, hương đăng tỏa rạng, thầy phù thủy sẽ nặn hình nhân thế
mạng bằng bột gạo, bằng giấy, hoặc bằng đất sét. Hình nhân thế mạng sẽ được đặt
cạnh linh vị đã ghi tên tuổi người đi lính Hoàng Sa.
Trong khói hương nghi ngút, lời phù chú lầm rầm trên nền nhạc bát âm hoặc ngũ
âm xen lẫn tiếng mõ thị uy của thầy phù thủy với áo thụng, mũ tam sơn sẽ diễn ra
dềnh dàng suốt cả 2 ngày.
Có bao nhiêu người đi lính trong dòng họ sẽ có bấy nhiêu hình nhân và linh vị.
Bên cạnh hình nhân và linh vị là người đi lính Hoàng Sa. Người lính ấy luôn đứng
hầu thần suốt buổi tế bằng chính niềm tin là lời nguyện cầu của chính mình, của
tộc họ sẽ thấu suốt đấng linh thiêng và ngón nghề ấn quyết của thầy phù thủy sẽ
xua được tà ma quỷ ám trên dặm dài sóng nước.
Sau lễ thức ở nhà thờ tộc họ, người Lý Sơn sẽ đặt các hình nhân và linh vị, cùng
những thứ tượng trưng mà người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa thường mang theo, như
gạo, muối, củi, nước ngọt, lưới… vào chiếc thuyền bằng giấy, tượng trưng cho
thuyền đi Hoàng Sa – Trường Sa thuở trước, đem thả ra biển. Lời nguyện cầu về sự
bình yên lẫn lời xua đuổi rủi ro sẽ được bỏ chung cùng thuyền lễ. Giữa bập bềnh
sóng gió hình nhân là kẻ thế mạng cho người đăng lính.
Khi buổi lễ tế thế lính Hoàng Sa kết thúc, người lính coi như “đã có một lần
chết”, và “hùng binh” ấy (như cách gọi của vua Tự Đức) có quyền tin tưởng rằng
mình sẽ không còn phải chết nữa dù sẽ trải qua muôn ngàn bất trắc trên biển khởi
ròng rã 6 tháng liền mỗi năm vâng lệnh triều đình.
Vì thế có thể xem lễ tế có người đăng lính đứng hầu chính là một lễ tế sống.
Nhưng không phải chỉ có tế sống. Mỗi tộc họ trên đảo Lý Sơn lẫn trong đất liền
cũng đã có hàng trăm người không may mắn trở về. Tại nhà thờ các tộc họ Phạm
Quang, Phạm Văn, Võ Văn… và tại các Âm linh tự (hay còn gọi là Nghĩa tự), vào
dịp lễ khao tế này vẫn còn thầy pháp ra tay ấn quyết và lầm rầm phù chú; vẫn còn
hình nhân bằng đất sét, hoặc bằng bột gạo, bằng giấy; vẫn còn hằng trăm linh vị
cắm trên nài chuối và những thứ tượng trưng mà người lính Hoàng Sa, Trường Sa
từng mang đi được cung thỉnh thả vào sóng nước, song chỉ còn nét nghĩa tế lính
Hoàng Sa và cả Trường Sa nhằm tri ân những người đã vì Tổ quốc hy sinh trên vùng
biển đảo.
Nếu như những dòng ghi chép về đội Hoàng Sa lẫn Bắc Hải (bao gồm cả Trường Sa)
trong các bộ chính sử của triều Nguyễn, như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính
biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí,… hoặc trong các bộ sách Phủ biên tạp lục
của Lê Quý Đôn, Việt sử thông giám khảo lược của Nguyễn Thông, Hoàng Việt địa dư
chí của Phan Huy Chú…, các tài liệu Hán-Nôm còn được bảo quản tại các dòng họ,
là những cứ liệu lịch sử khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên Biển
Đông cách đây 3, 4 thế kỷ trước, thì những dấu tích liên quan đến đội Hoàng Sa ở
khắp nơi dọc ven biển miền Trung, đặc biệt là trên đảo Lý Sơn và vùng cửa biển
Sa Kỳ, cùng lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, hoặc tế lính Hoàng Sa hằng năm trên
đất đảo Lý Sơn và một vài nơi khác trong tỉnh Quảng Ngãi, cũng đã góp phần quan
trọng vào việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ấy.
Chính vì những lẽ ấy, Lý Sơn được khẳng định là bảo tàng sống động về chủ quyền
Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam./.
Theo Nguyễn Đăng Lâm-Nguyễn Đăng Vũ (TTXVN)