Thứ Sáu, 20/9/2024
Tuyên truyền
Thứ Ba, 13/10/2009 21:30'(GMT+7)

Đẩy mạnh công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Nhờ công cuộc đổi mới, đời sống của nhân dân đã được nâng lên rõ rệt.

Nhờ công cuộc đổi mới, đời sống của nhân dân đã được nâng lên rõ rệt.


Đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam

Bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở Việt Nam là những chủ trương và giải pháp do Hội nghị Trung ương 6 khóa IV Đảng Cộng sản Việt Nam (8-1979) đề ra nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho sản xuất bung ra. Tiếp đó, Đảng và Chính phủ đề ra nhiều chính sách cụ thể: Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (13-1-1981) về khoán sản phẩm trong hợp tác xã nông nghiệp; Quyết định 25 CP và 26 CP (21-1-1981) về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Trung ương 8 khoá V (6-1985) xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp để chuyển sang hạch toán kinh doanh; Kết luận của Bộ Chính trị (8-1986) về đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và cơ cấu sản xuất. Đó là quá trình đổi mới từng bước và cũng từng bước hình thành đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986).

Đổi mới nhận thức thực tiễn và tư duy lý luận

Đường lối đổi mới của Đại hội VI trước hết là đổi mới nhận thức thực tiễn và tư duy lý luận. Đổi mới nhận thức thực tiễn là thái độ của Đảng trong đánh giá tình hình với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, thấy rõ những thành tích nhưng cũng chú trọng kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích những sai lầm, khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục. Đổi mới tư duy lý luận hướng vào nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những quy luật khách quan và đặc trưng cơ bản. Từ thực tiễn lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó, Đại hội VI đã nêu lên những bài học quan trọng, trong đó có bài học: Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội, làm trái quy luật, nhất là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ sự đổi mới trong tư duy lý luận, Đại hội VI quyết định đổi mới chính sách kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần (kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp); đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp, kết hợp kế hoạch với thị trường, nhận thức đúng vai trò của kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường; thực hiện những chương trình kinh tế lớn để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân. Đại hội VI nhấn mạnh đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước, khắc phục bệnh quan liêu, chú trọng lấy dân làm gốc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, xã hội bằng pháp luật. Đại hội VI chú trọng đổi mới chính sách đối ngoại, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, coi trọng thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.

Với đường lối đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, Đại hội VI của Đảng là bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển đất nước.

Đường lối đổi mới của Đảng đã được toàn dân hưởng ứng và thực hiện. Đổi mới là yêu cầu bức thiết của cuộc sống nhằm đưa đất nước vượt qua khó khăn về kinh tế, vì lợi ích của dân tộc và của nhân dân đồng thời thể hiện sự trưởng thành của Đảng trong tư duy lý luận và nhận thức thực tiễn, độc lập, tự chủ, sáng tạo trong đường lối, chính sách và sự lựa chọn hình thức, giải pháp và bước đi thích hợp của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử

Suốt gần một phần tư thế kỷ qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã và đang được thực hiện trên một đường lối nhất quán, một định hướng đúng. Quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng không ngừng cụ thể hóa và phát triển đường lối, chính sách phù hợp với biến chuyển của tình hình đất nước và thế giới. Các Đại hội Đảng lần thứ VII (6-1991), lần thứ VIII (6-1996), Đại hội IX (4-2001), Đại hội X (4-2006), nhiều Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị các khóa đã bổ sung phát triển đường lối, chính sách và giải pháp thúc đẩy toàn diện công cuộc đổi mới.

Với đường lối, chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng, sự quản lý, tổ chức thực hiện có hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước, Chính phủ, với sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc và phấn đấu làm việc, lao động sáng tạo của công nhân, nông dân, trí thức, các lực lượng vũ trang nhân dân, triệt để phát huy nội lực kết hợp với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Thành tựu nổi bật trước hết là nền kinh tế tăng trưởng, phát triển khá và đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng (1996), hạn chế được ảnh hưởng xấu và vượt qua được khủng hoảng tài chính, tiền tệ của khu vực (1997-2000), chủ động đối phó có hiệu quả khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ cuối 2007 đến nay. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm 1986-1990 là 3,9%, 1991-1995: 8,2%, 1996-2000: 7%, 2001-2005: 7,51%, năm 2006 và 2007 đều tăng hơn 8%, dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đạt 6% và năm 2009 dự báo đạt từ 5 đến 5,5%. Với chính sách phát triển đúng đắn, nhất là từ sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (5-1988) nền nông nghiệp đã phát triển nhanh và vững chắc, từ một nước thiếu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ ba thế giới từ 1989 và năm 2009 xuất khẩu gạo có thể đạt 6 triệu tấn. Với đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiều ngành công nghiệp phát triển với mấy trăm khu công nghiệp với kết cấu hạ tầng được xây dựng mới đã tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng vững mạnh và chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu của nền kinh tế. Các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển bình đẳng trước pháp luật và đóng góp xứng đáng vào nền kinh tế quốc dân gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể và tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường sức lao động, thị trường bất động sản và thị trường khoa học - công nghệ. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng có chiều sâu, hiệu quả và Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ 7-11-2006.

Một thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới là trên cơ sở phát triển kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất, tinh thần. Thu nhập tính theo đầu người năm 2008 đạt hơn 1.000 đô la, gấp nhiều lần so với trước năm 1986, vượt qua ngưỡng của nước nghèo và kém phát triển. Thành công lớn trong chính sách xóa đói giảm nghèo thực hiện thành công mục tiêu thiên niên kỷ do Liên hợp quốc đề ra, giảm tỷ lệ hộ nghèo hơn 60% năm 1990 xuống hơn 12% năm 2008. Mức hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân trên cơ sở xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Phát triển giáo dục đào tạo theo chiến lược của Đảng từ giáo dục mầm non đến giáo dục phổ thông, đào tạo đại học và sau đại học. Theo Thông tin lý luận chính trị của Hội đồng Lý luận Trung ương số 15 (9-2009), hiện nay Việt Nam có hơn 2,5 triệu người có trình độ đại học và cao đẳng trở lên, trong đó có gần 20.000 thạc sĩ, khoảng 17.000 thạc sĩ và tiến sĩ khoa học, 7.000 phó giáo sư và giáo sư. Các chính sách xã hội, hệ thống an sinh xã hội được thực hiện có hiệu quả hơn bao gồm bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội và phúc lợi xã hội. Chỉ số chất lượng dân số tăng lên, tuổi thọ bình quân của người Việt Nam năm 2008 là trên 73 tuổi.

Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố vững mạnh là một trong những thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới. Mặc dù các thế lực thù địch ra sức chống phá, diễn biến của thế giới phức tạp song Việt Nam vẫn giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội. Sự ổn định đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý, điều hành có hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước, sự đoàn kết, đồng thuận của dân tộc, đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao, sức mạnh quốc phòng, an ninh được tăng cường. Trong suốt tiến trình đổi mới, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân có nhiều thành tích trong xây dựng lực lượng, nâng cao tinh thần chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng ở một số địa bàn có hiệu quả. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được củng cố. Hệ thống chính trị được đổi mới theo hướng tự đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, nâng cao năng lực cầm quyền; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chú trọng cải cách hành chính, cải cách tư pháp, làm rõ chức năng và vai trò của Quốc hội; xây dựng, củng cố Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân các cấp nhằm tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, sự đồng thuận trong xã hội và thực hiện chức năng phản biện xã hội. Chính sự đổi mới tư duy chính trị, hệ thống chính trị được thực hiện đồng bộ, có hiệu quả có ý nghĩa quyết định thành công trong đổi mới các lĩnh vực khác.

Đại hội X của Đảng đã nêu bật thành công trên lĩnh vực đối ngoại, quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân phát triển mạnh, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước trong tổng số 192 nước thành viên Liên hợp quốc. Tiếp tục tăng cường tình hữu nghị với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, với các Đảng Cộng sản, công nhân, các lực lượng cánh tả, củng cố khối đoàn kết 3 nước Đông Dương. Quan hệ đầy đủ với các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G8). Tham gia và đóng góp tích cực vào các tổ chức và diễn đàn khu vực và thế giới: ASEAN, APEC, ASEM, WTO. Cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các nguồn vốn FDI, ODA. Vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được khẳng định và nâng cao. Việt Nam trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, tháng 7-2008 và tháng 10-2009 đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

Kiên định con đường đã chọn

Một thành công nổi bật là thực tiễn của công cuộc đổi mới đã làm rõ hơn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Đại hội X cho rằng, thành tựu của đổi mới chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, sáng tỏ hơn cả về mục tiêu và mô hình của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Sáng tỏ hơn về những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, các hình thức sở hữu và bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; sáng tỏ hơn về khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến lên chủ nghĩa xã hội; sáng tỏ hơn về những động lực, giải pháp cần thiết để đạt tới mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Thành công của sự nghiệp đổi mới gắn liền với sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thành công đó được toàn dân khẳng định và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, được đồng chí, bạn bè, đối tác trên thế giới ngưỡng mộ, đánh giá cao và tích cực ủng hộ, hợp tác. Đồng bào Việt Nam ở nước ngoài cũng hướng về đất nước tham gia vào sự nghiệp đổi mới. Có những người Việt Nam đã từng ở bên kia chiến tuyến cũng đã thay đổi thái độ nhìn nhận, đánh giá, trở về trong lòng dân tộc. Chỉ có các thế lực thù địch, những kẻ quay lưng lại với dân tộc và đất nước, hay những người cố tình nhắm mắt trước thực tế mới có những tiếng nói lạc lõng, xuyên tạc sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã và đang đi trên con đường đúng đắn do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã lựa chọn, có đầy đủ trình độ trí tuệ, bản lĩnh và biết cần phải làm gì và nhất định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

PGS,TS. Nguyễn Trọng Phúc
(QDND)

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất