Về nguyên tắc, đào tạo trực tuyến đòi hỏi tinh thần chủ động cao của người học, tinh thần trách nhiệm cao của người dạy và tính trung thực, nghiêm túc cao trong đánh giá kết quả học tập. Nếu quy trình đào tạo được thực hiện đúng theo nguyên tắc thì chất lượng đào tạo được đảm bảo và sẽ không có sự phân biệt về văn bằng giữa đào tạo chính quy và không chính quy.
1. Hai thập kỷ qua, thế giới đã chứng kiến sự gia tăng về số lượng và chủng loại thiết bị hỗ trợ nền tảng giảng dạy và học tập kỹ thuật số. Người ta phân loại 3 lớp thiết bị cá nhân dùng rộng rãi là: điện thoại, máy tính bảng và máy tính bàn, trong đó ranh giới giữa những loại thiết bị đã thay đổi, không còn giới hạn, trở thành công nghệ bỏ túi của cá nhân và do đó mở ra nhiều cơ hội cho giáo dục từ xa, trực tuyến vốn rất bị hạn chế trước đây.
Cùng những tiến bộ về phần cứng di động thì việc kết nối di động đã được cải thiện đáng kể và trở thành điều kiện tiên quyết để phát triển. Theo dữ liệu của Ngân hàng thế giới (World Bank 2009), ở các nước thu nhập thấp và trung bình, tỷ lệ tăng 10% thâm nhập băng thông rộng làm tăng 1,38% tăng trưởng kinh tế. Từ năm 2012, Liên minh Viễn thông quốc tế đã ước tính có 1,2 tỷ thuê bao băng thông rộng di động trên toàn thế giới và cứ 1 người truy cập Internet từ máy tính thì có 2 người truy cập từ thiết bị di động.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO) đã khuyến nghị các chính phủ hợp tác với ngành công nghiệp liên quan để xây dựng và tăng cường cơ sở hạ tầng công nghệ, cung cấp thiết bị di động nhằm mở rộng giảng dạy và học tập trực tuyến. Điều quan trọng là chính phủ cần tìm kiếm các chiến lược cung cấp quyền truy cập như nhau vào kết nối di động. Người học không thể sử dụng mạng di động nếu bị từ chối chức năng truy cập để đáp ứng nhu cầu dạy và học tập ngày càng tăng này.
Ở một số quốc gia như Hoa Kỳ, Canada và các nước phát triển Châu Âu (Thụy Điển, Rumani, Bungari và các nước trong khu vực Liên minh Châu Âu) mặc dù điện thoại di động được sử dụng khá rộng rãi và số lượng sử dụng tăng hành năm, nhưng số người áp dụng dạy và học trên thiết bị di động không cao; việc dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động không nằm trong chính sách ưu tiên phát triển giáo dục ở các quốc gia, khu vực này.
Ngược lại, Nga và Ukraine là các nước rất phổ biến việc dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động, hiện đang phát triển thông qua sáng kiến dạy và học ở các lĩnh vực tư nhân, hoặc qua sáng kiến cho người học làm quen với việc học trực tuyến trên thiết bị di động trong các nhà trường học.
Ở châu Á - Thái Bình Dương, việc áp dụng dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động lại chiếm thị phần cao hơn nhiều so với khu vực Bắc Mỹ. Trung Quốc và Ấn Độ đóng góp nhiều nhất vào dân số dùng điện thoại di động, với lần lượt là 880 triệu và 470 triệu người dùng, các ước tính cho thấy việc sử dụng cơ sở hạ tầng di động trở thành nền tảng chính không chỉ cho nhà giáo dục mà còn cho nhà quảng cáo, chủ ngân hàng và nhà tiếp thị của khu vực này. Các sáng kiến dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động ở khu vực này nhằm mục tiêu nâng cao trình độ giáo dục, xóa mù chữ. Nhật Bản, Bangladesh, Hàn Quốc và một số quốc gia đã và đang triển khai các dự án dạy và học trên thiết bị di động quy mô lớn quốc gia với chính sách tạo điều kiện sử dụng thiết bị di động trong giáo dục góp phần thúc đẩy môi trường học tập trong tương lai thông qua các sáng kiến học tập di động sáng tạo như Trường học thông minh ở Malaysia, FutureSchools@Singapore tại Singapore, Chiến lược xúc tiến giáo dục thông minh ở Hàn Quốc...
Nghiên cứu hiện trạng dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động ở một số khu vực trên thế giới cho thấy, việc truy cập dạy và học vào thiết bị di động vượt trội đáng kể so với truy cập máy tính xách tay do chi phí điện thoại di động thấp. Tuy nhiên, cùng với việc mở rộng công nghệ 3G hoặc 4G, nhưng tỷ lệ chấp nhận dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động phát triển với tốc độ không như nhau ở các quốc gia, xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu như:
1) Chưa có chính sách đầy đủ để triển khai ứng dụng việc dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động.
2) Phát sinh một số vấn đề về sức khỏe và tâm lý của đối tượng áp dụng việc dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động. Ý nghĩa tích cực của việc dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động đã được thừa nhận rộng rãi. Mặc dù vậy, đã phát sinh một số vấn đề về khả năng truy cập cho những người ở các độ tuổi khác nhau hoặc sức khỏe, tâm sinh lý khác nhau. Khi xây dựng chính sách giáo dục vấn đề này chưa được đề cập để giải quyết cụ thể như việc lạm dụng điện thoại di động liên quan đến sự mất tập trung của người học trong lớp, vấn đề bảo đảm an ninh, tiếp xúc của người học với các môi trường có chứa tài liệu không phù hợp với lứa tuổi, hay hành vi gian lận tiềm ẩn trong kỳ thi ở trường…
3) Chưa bảo đảm được tính công bằng trong khả năng tiếp cận của người dạy và người học khi truy cập điện thoại di động hiện đại như smartphone. Do có hạn chế về phát triển kinh tế - xã hội và công nghệ ở từng quốc gia, khu vực, địa phương và từng đối tượng (thu nhập thấp, hoặc xuất phát từ nguồn gốc xã hội khác nhau…) nên chi phí triển khai các sáng kiến di động, đặc biệt là các thực tiễn giáo dục mở ở mức cao đã làm hạn chế việc áp dụng dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động. Ngoài ra, còn có hạn chế theo định hướng công nghệ trong phạm vi phủ sóng bởi các mạng 3G hoặc 4G. Hơn nữa, việc sẵn có với số lượng lớn các chuẩn và hệ điều hành, ngôn ngữ lập trình, định dạng âm thanh, video, kích thước và độ phân giải màn hình ở các khu vực cũng khác nhau nên cũng là nhược điểm cho việc triển khai dạy và học trên thiết bị di động.
4) Thiếu nguồn nhân lực chuyên môn, nghiệp vụ từ đội ngũ cán bộ, giáo viên để triển khai được đồng bộ việc dạy và học trên thiết bị di động. Trong môi trường học tập không chịu tác động của thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh thì các kế hoạch giáo dục cụ thể hoặc hướng dẫn cho cả giáo viên và học sinh cách sử dụng thiết bị cá nhân của họ cho mục đích giáo dục đôi khi rất ít. Hơn nữa, việc kết hợp nội dung dạy và học trong chương trình, kế hoạch giáo dục hiện tại trong nhà trường với các sáng kiến dạy và học trên thiết di động để nâng cao chất lượng giáo dục thì còn thiếu nguồn lực để đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ giáo viên, người học nên họ không muốn áp dụng phương pháp dạy và học đổi mới này.
5) Các yếu tố ảnh hưởng đến tính bền vững liên quan của thiết bị như: tuổi thọ pin, khả năng sử dụng giao diện, bộ nhớ thiết bị, phần cứng hoặc kích thước màn hình, bàn phím nhỏ khó đánh máy và các vấn đề bảo mật, cũng được liệt kê trong số các nguyên nhân dẫn đến hạn chế việc phổ biến phương pháp dạy và học trên thiết bị di động.
2. Việt Nam hiện có gần 100 triệu dân, trong đó có hơn 20 triệu học sinh, sinh viên cùng khoảng 2 triệu nhà giáo các cấp học. Tốc độ phổ biến và thâm nhập việc dạy và học trên thiết bị di động ở Việt Nam tăng khá nhanh trong những năm qua. Thực tế thời gian qua cho thấy, dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động là thật sự cần thiết, không chỉ là “giải pháp tình thế” nhằm khắc phục những khó khăn do đại dịch COVID-19 gây ra.
Đại dịch Covid-19 bùng phát đã ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo như: việc triển khai thực hiện nội dung, chương trình, kế hoạch giảng dạy và học tập (phải thay đổi, gián đoạn, phải kéo dài so với kế hoạch ban đầu); tác động đến tâm lý người học và phụ huynh học sinh (bị dao động, hoang mang); những khó khăn liên quan đến việc quản lý người học, hướng dẫn nội dung học tập, thông tin về phòng chống dịch bệnh...
Vì vậy, việc áp dụng dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động được coi là một trong những giải pháp hữu hiệu, tận dụng được các nguồn lực xã hội giúp cho kế hoạch học tập của các nhà trường không bị gián đoạn, học sinh dừng đến trường nhưng không dừng học.
Phương thức dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 là tối ưu. Việc kết hợp giữa dạy và học truyền thống với dạy và học có ứng dụng công nghệ sẽ hỗ trợ cho hoạt động đào tạo được tốt hơn, tạo động lực khuyến khích, thúc đẩy sự sáng tạo của người dạy và người học, góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo.
|
Để ứng phó với dịch COVID-19, thời gian quan ngành giáo dục đã xây dựng, ban hành một số văn bản hướng dẫn dạy học qua Internet, trên truyền hình, đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến. Qua đó, các nhà trường triển khai thực hiện, lựa chọn các công cụ hỗ trợ, các nội dung, các học phần phù hợp để dạy và học trực tuyến; đảm bảo chất lượng đào tạo trên cơ sở yêu cầu của chương trình và điều kiện của từng cơ sở giáo dục với mục đích tinh gọn, tiện ích, đáp ứng yêu cầu chất lượng theo chuẩn đầu ra của chương trình.
Tuy nhiên, hiệu quả thực tiễn triển khai dạy và học theo các hình thức trên chưa cao, tính chủ động xây dựng kế hoạch học tập ứng phó với dịch bệnh, thiên tai còn bị động; người dạy chưa sẵn sàng thực hiện đổi mới, tiếp cận công nghệ, ứng dụng công nghệ khai thác tài liệu, chuẩn bị bài giảng chưa đồng đều giữa các vùng miền, thậm chí trong từng nhà trường. Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin của người học còn “vênh nhau” ở tất cả các cấp bậc học. Các điều kiện đảm bảo triển khai dạy và học theo hình thức trực tuyến trong các nhà trường chưa đồng bộ từ hạ tầng kỹ thuật, công nghệ kết nối Internet đến thiết bị phục vụ dạy và học trực tuyến. Việc hướng dẫn kiểm tra, đánh giá công nhận kết quả học tập theo hình thức trực tuyến chưa cụ thể, gây khó khăn và áp lực cho giáo viên. Mặt bằng kinh tế gia đình không đồng đều, đặc biệt là ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa... nên chưa trang bị được các thiết bị cơ bản (máy tính, điện thoại thông minh, kết nối mạng Internet…).
3. Học tập là quyền và một hoạt động cơ bản của con người, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, những tác động và đòi hỏi đặt ra đối với giáo dục sẽ sâu sắc hơn so với các ngành khác. Việc tiếp cận và ứng dụng triển khai dạy và học trực tuyến trên thiết bị di động là xu thế của thế giới, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh là một giải pháp hữu hiệu mang tính “tình thế” trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, dạy và học trực tuyến sẽ là một trong những “giải pháp chiến lược” góp phần đổi mới quản trị cơ sở giáo dục, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo; phát huy tiềm lực cá nhân hóa của người dạy, người học và của cơ sở giáo dục (năng lực tự chủ và tự học, năng lực tin học, công nghệ, giải quyết vấn đề và sáng tạo); mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho người học khi không thể đến trường vì những lý do khách quan; tạo cơ hội cho người dạy và người học chủ động tiếp cận được nguồn học liệu (tài nguyên giáo dục) trên Internet để khai thác, vận dụng vào giảng dạy và học tập…
Để tạo hành lang pháp lý cho việc dạy và học theo hình thức trực tuyến được tiếp cận một cách đầy đủ, hệ thống để triển khai lâu dài, phù hợp với thực tiễn thì cần có quy định hướng dẫn cụ thể và rõ ràng đối với hình thức dạy và học này. Chuẩn hoá các nguồn tài liệu, bài giảng, học liệu điện tử; xây dựng các tiêu chuẩn về dạy học từ xa, trực tuyến, công nghệ thông tin và an toàn thông tin nhằm đảm bảo chất lượng của hoạt động dạy học từ xa, trực tuyến, tính mở của các nền tảng, tính kết nối liên thông với các lĩnh vực khác, đảm bảo các ứng dụng sẽ được phát triển bởi tổ chức và không có tình trạng độc quyền hoặc vi phạm các quy định pháp luật về bảo mật dữ liệu cá nhân. Nâng cao năng lực hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ dạy và học trực tuyến. Xây dựng chính sách vĩ mô cho áp dụng thiết bị di động vào mục đích học tập phù hợp với vùng, miền và các đối tượng học tập, bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận giáo dục.
Đổi mới mạnh mẽ các phương thức dạy và học kết hợp với việc ứng dụng công nghệ hiện đại, khai thác các nguồn tài nguyên giáo dục phong phú trong nước và trên thế giới sẽ góp phần hoàn thiện nền giáo dục theo hướng mở đã được đề cập trong Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo./.
TS. MAI VĂN TỈNH
Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam