Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến cho dự thảo Thông tư Quy định
điều kiện, hồ sơ, trình tự và thủ tục chấp thuận việc góp vốn, mua cổ
phần của tổ chức tín dụng. Trong đó, đáng lưu ý là quy định tổ chức tín
dụng (TCTD) được hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần, nhưng chỉ được
thực hiện đối với nợ thuộc nhóm 5 hoặc nợ đã được xử lý bằng dự phòng
rủi ro.
Đã được áp dụng trên thế giới
Ý
tưởng hoán đổi nợ xấu thành cổ phần của NHNN đang phải đối mặt với
nhiều phản đối gay gắt từ công luận. Tuy nhiên, công bằng mà nói, việc
hoán đổi nợ thành cổ phần trong doanh nghiệp con nợ không phải là mới,
vì nó đã được thực hiện từ lâu trên thế giới.
Sau
khi bong bóng bất động sản bục vỡ ở Nhật Bản 2 thập kỷ trước đây, nhiều
doanh nghiệp đứng bên bờ vực phá sản, các ngân hàng đối mặt với nợ
không thu hồi được. Một trong những giải pháp được một số ngân hàng thực
thi lúc đó là hoán đổi nợ thành cổ phần và cử người đại diện vào Ban
Giám đốc điều hành doanh nghiệp để cùng chèo lái vượt qua khủng hoảng.
Không phải tất cả các trường hợp đều thành công nhưng cũng không ít
trường hợp đã đem lại kết quả, doanh nghiệp sống sót còn ngân hàng thu
hồi được (một phần) nợ.
Ở Trung
Quốc, chương trình hoán đổi nợ thành cổ phần rầm rộ với quy mô lớn đã
được thực hiện từ cuối những năm 90. Chính phủ nước này đã cho chuyển
3,3 nghìn tỷ Nhân dân tệ (tương đương 490 tỷ USD) nợ xấu tại 4 ngân hàng
thương mại quốc doanh lớn nhất Trung Quốc cho các công ty quản lý tài
sản (AMC) để các công ty này chuyển một phần thành khoảng 400 tỷ Nhân
dân tệ trị giá cổ phần trong các doanh nghiệp con nợ. Hạn chế của chương
trình hoán đổi nợ kiểu này là các AMC không nhận được cổ tức và không
có quyền hành gì trong Ban Giám đốc của doanh nghiệp, AMC cũng khó bán
lại cổ phần tại các doanh nghiệp này.
Hồi
tháng 3 năm nay, Thủ tướng Trung Quốc tuyên bố sẽ thực hiện việc hoán
đổi nợ thành cổ phần theo cơ chế thị trường. Và đến ngày 10.10 vừa qua,
chương trình hoán đổi nợ thành cổ phần đã được công bố dù bị phê phán
kịch liệt. Theo đó, Chính phủ Trung Quốc không ép buộc các ngân hàng
phải thực hiện việc này. Về phía doanh nghiệp, nếu nợ ngập đầu và không
có khả năng phục hồi thì sẽ không được phép tham gia chương trình. Chỉ
có những doanh nghiệp với triển vọng tốt và được xác định là đang gặp
khó khăn tạm thời thì mới đạt điều kiện để tham gia chương trình.
Áp dụng ở Việt Nam
Điểm
đáng ủng hộ nhất trong dự thảo của NHNN là các TCTD không bị bắt buộc
phải hoán đổi nợ xấu thành cổ phần trong các doanh nghiệp con nợ. Nếu bị
buộc phải làm điều này thì sẽ có một số trường hợp “dở khóc, dở cười”.
Ví dụ, một số doanh nghiệp con nợ thực chất là doanh nghiệp tốt nhưng vì
một lý do nào đó không trả được nợ. Với những doanh nghiệp này, họ
không muốn để cổ phần của mình lọt thêm vào tay ai khác, kể cả ngân hàng
chủ nợ. Trong trường hợp này, ngân hàng không thể thực hiện được việc
hoán đổi nợ, dù bị NHNN bắt buộc. Hoặc cũng có trường hợp ngân hàng muốn
được giải thoát khỏi nợ xấu với doanh nghiệp con nợ bằng cách bán lại
này cho nhà đầu tư “kền kền” nào đó với giá rẻ thì cũng không được phép
bán vì phải thực hiện hoán đổi nợ thành cổ phần với doanh nghiệp như yêu
cầu của NHNN.
Ngược lại, điểm thiếu
sót lớn nhất của dự thảo là trong phần điều kiện để các ngân hàng được
hoán đổi nợ thành cổ phần không hề có điều khoản nào đề cập đến doanh
nghiệp con nợ như thế nào thì được phép hoán đổi nợ với ngân hàng chủ
nợ. Sự thiếu vắng này tạo điều kiện, là kẽ hở để những doanh nghiệp “xác
sống” tiếp tục được ngân hàng chủ nợ “tiếp máu” nuôi dưỡng, có thể bằng
những khoản vay nợ mới. Các ngân hàng có một vài lý do để sẵn lòng hoán
đổi nợ và có thể tiếp tục cho vay mới các doanh nghiệp này. Ví dụ, các
doanh nghiệp này có thể là “sân sau” của ông chủ ngân hàng nên việc cho
phép hoán đổi này là cái cớ hết sức phù hợp để ông chủ ngân hàng lấy
tiền nuôi doanh nghiệp của mình.
Hoặc
cũng có thể các ngân hàng dù biết rằng triển vọng phục hồi của doanh
nghiệp là mù mịt nhưng không muốn phải báo cáo với cổ đông, với cơ quan
chủ quản con số nợ xấu cao nên tốt nhất là đem “chôn” đi theo một cách
hợp pháp là hoán đổi thành cổ phần để tỷ lệ nợ xấu trên sổ sách kế toán
trở nên đẹp hơn mà không nhất thiết phải qua những kênh truyền thống như
bán nợ xấu cho VAMC hoặc trích lập dự phòng toàn bộ cho khoản nợ xấu.
Bằng cách này, họ hy vọng có thể kiếm được lợi nhuận nhiều hơn, ví dụ,
được phép đẩy tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn do tỷ lệ nợ xấu thấp
hơn, bù đắp cho phần tổn thất từ khoản nợ phải thu nhưng hầu như chắc
chắn là không thu được này.
Sửa đổi dự thảo
Từ
phân tích trên, NHNN cần bổ sung trong dự thảo là điều khoản quy định
đối tượng doanh nghiệp nào thì được phép hoán đổi nợ với TCTD. Cụ thể,
chỉ có những doanh nghiệp nào được cho là tạm thời gặp khó khăn, có khả
năng phục hồi trong tương lai không xa để có thể làm ra lợi nhuận trả
lại cho ngân hàng hoặc ngân hàng có thể bán được cổ phần thu hồi nợ.
Để
tăng tính minh bạch, tránh tình trạng ngân hàng muốn hoán đổi nợ nên
tìm cách báo cáo phóng đại khả năng phục hồi của doanh nghiệp, dự thảo
cũng cần có thêm điều khoản về tiêu chuẩn đánh giá sức khỏe và khả năng
phục hồi của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây là một điểm khó thực hiện vì
rất khó đề ra những tiêu chuẩn chung cho mọi doanh nghiệp, trong mọi
hoàn cảnh. Một cách làm khác là yêu cầu các TCTD thuê công ty tư vấn độc
lập chuyên nghiệp trong ngành nghề mà doanh nghiệp đang hoạt động để
đánh giá. Cách này cũng sẽ có khó khăn vì Việt Nam hiện tại không có
nhiều tổ chức tư vấn độc lập, uy tín, có khả năng đánh giá sức khỏe và
triển vọng của doanh nghiệp, đồng thời tạo thêm phí tổn cho các bên liên
quan. Bởi vậy, có lẽ dự thảo cần phải tiếp tục lấy ý kiến đóng góp của
công chúng thêm ở điểm này trước khi hoàn tất và ban hành.
TS. Phan Minh Ngọc (daibieunhandan.vn)