NHỮNG NỖ LỰC KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN
2022 là năm đầu tiên áp dụng chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025
với chuẩn nghèo thu nhập và 6 chiều dịch vụ xã hội cơ bản tương ứng với
12 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản. Theo chuẩn
nghèo mới, năm 2022 toàn quốc có 4,03% hộ nghèo đa chiều.
Trước đó, theo Báo cáo Phát triển con người (HDR) năm 2019 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại
Việt Nam (UNDP), Việt Nam có 4,9% dân số nghèo đa chiều so với mức
chung của các nước đang phát triển là 23,1%. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn
nghèo đa chiều năm 2023 còn 2,93%, (giảm 1,1% so với cuối năm 2022); tỷ
lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 33% (giảm 5,62%); tỷ lệ hộ
nghèo dân tộc thiểu số còn khoảng 17,82% (giảm 3,2%).
Nhận thức của hệ thống chính trị và nhân dân về vai trò quan trọng
của chính sách xã hội trong phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Các chính sách xã hội không ngừng
được hoàn thiện theo hướng tiến bộ và công bằng. Chính sách ưu đãi cho
người có công với cách mạng được thực hiện tốt với hơn 1,2 triệu người
và thân nhân hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng, 98,6% gia đình người có
công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình.
Việc bảo đảm an sinh xã hội đã chuyển
từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh của công dân. Số người
hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên đạt 3,3 triệu người vào năm 2022.
Diện bao phủ bảo hiểm xã hội (BHXH)
và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) không ngừng mở rộng với tỷ lệ tham gia
BHXH đạt 39,25% và BHTN đạt 31,58% lực lượng lao động vào năm 2023. Tỷ
lệ tham gia BHXH tự nguyện cũng tăng lên, đạt 1,83 triệu người.
Tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân ngày càng tốt hơn.
Về giáo dục-y tế, từ năm 2015, 99% trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học
và trên 95% cấp trung học cơ sở từ năm 2020. Năm 2023, 93,35% dân số
tham gia bảo hiểm y tế và 90% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ. Về
nhà ở, đến năm 2020, 648.000 hộ nghèo nông thôn và 323.000 căn nhà cho
người nghèo đã được hỗ trợ. Đến năm 2021, 90% dân nông thôn sử dụng nước
hợp vệ sinh.
Về tiếp cận thông tin, năm 2016, 100% xã miền núi, vùng sâu, vùng xa,
biên giới và hải đảo đã được phủ sóng phát thanh và truyền hình mặt
đất; đến năm 2020, 100% xã có đài truyền thanh.
Bên cạnh đó, từ năm 2019, Việt Nam được xếp vào nhóm phát triển con
người cao. Việt Nam đã đạt được tiến bộ ổn định trong cả 3 khía cạnh của
HDI (tổng thu nhập quốc dân/đầu người, tuổi thọ trung bình và số năm đi
học trung bình) kể từ những năm 90 của thế kỷ trước. Theo Báo cáo Phát
triển con người toàn cầu 2023/2024 của UNDP, chỉ số HDI của Việt Nam là
0,726, tăng 8 bậc, từ vị trí 115 (2021-2022) lên 107 (2023-2024).
CÒN ĐÓ NHỮNG GAM MÀU TRẦM
Về thu nhập, chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư chủ yếu từ thu
nhập tài sản như bất động sản, cổ phiếu và đất đai, làm gia tăng bất
bình đẳng giàu nghèo. Hệ số GINI đã tăng từ 0.36 năm 1996 lên 0.423 năm
2019. Dù hệ số này đang giảm dần và nằm trong ngưỡng an toàn (0.30 -
0.45), nhưng nếu không có biện pháp hữu hiệu, bất bình đẳng vẫn là mối
đe dọa cho mục tiêu bao trùm của Chính phủ.
Năm 2022, chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất là
7,6 lần. Trong khi số lượng triệu phú USD tăng, tỷ lệ nghèo cùng cực
(thu nhập dưới 1,9 USD/người/ngày) vẫn là 1,2% năm 2020. Tăng trưởng
hiện tại chủ yếu có lợi cho người giàu, gia tăng phân hóa xã hội và rủi
ro bất ổn.
Hệ thống ASXH mặc dù đã mở rộng về phạm vi và đối tượng, chất lượng
dịch vụ ASXH vẫn hạn chế. Tỷ lệ tham gia BHXH tự nguyện, BHTN thấp, trợ
cấp xã hội chỉ đến được một bộ phận đối tượng yếu thế. Nhiều tiêu cực và
rào cản tồn tại trong tiếp cận dịch vụ xã hội, khiến nhiều cư dân không
thể ứng phó với rủi ro thiên tai, dịch bệnh. Chênh lệch mức sống gia
tăng gây thiệt thòi cho người nghèo và hạn chế cơ hội tiếp cận dịch vụ
an sinh. Hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng, niềm tin xã
hội vào hệ thống còn hạn chế, thể hiện qua việc đã có thời điểm nhiều
người lao động rút sổ bảo hiểm một lần. Chính sách hỗ trợ chưa bền vững,
tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn và thất nghiệp ở thành thị, nhất là
trong thanh niên còn cao.
Trong giáo dục, bất bình đẳng kinh tế gia tăng đồng nghĩa với việc cơ
hội học tập giữa “con nhà giàu” và “con nhà nghèo” ngày càng chênh
lệch. Vẫn có tình trạng trẻ em phải thôi học vì gia đình không đủ khả
năng chi trả học phí hoặc phải lao động kiếm sống. Những em được đi học
thường khó theo kịp các bạn khá giả hơn, do thiếu điều kiện học thêm và
học ngoại ngữ. Sau phổ thông, các em từ gia đình thu nhập thấp ít có cơ
hội học đại học. Sự chênh lệch về tỷ lệ hoàn thành các cấp học giữa
thành thị và nông thôn, giữa các nhóm thu nhập, các vùng cũng là thực
trạng đáng lo ngại. Trẻ em từ các hộ nghèo có tỷ lệ hoàn thành cấp học
thấp, trẻ em từ hộ giàu có tỷ lệ cao. Vậy là gánh nặng kinh tế đã ảnh
hưởng lớn đến học tập, khiến nhiều em có hoàn cảnh khó khăn chưa thoát
khỏi rào cản của nghèo đói, khiến giảm đi cơ hội sống hạnh phúc và sung
túc.
Khám, chữa bệnh miễn phí cho nhân dân xã Bắc Xa, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. (Ảnh: Phú Sơn/ Báo QĐND)
VÌ MỘT VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG
Trước những thực trạng nêu trên, giải pháp bảo đảm hiệu quả chính
sách ASXH để thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng trưởng bao trùm thời
gian tới gồm có:
Thứ nhất, thực hiện các chính sách tăng trưởng hài hòa. Trong mô hình
tăng trưởng mới, cần chú trọng cả về chất lượng và tính bao trùm của
tăng trưởng, thay vì chỉ theo đuổi tăng trưởng bằng mọi giá, tránh gia
tăng bất bình đẳng. Sự gia tăng bất bình đẳng sẽ đe dọa mục tiêu tăng
trưởng trong tương lai.
Chính sách tăng trưởng hài hòa cần bảo đảm tất cả tầng lớp dân cư đều
tham gia và hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng, đồng thời thực hiện
phân phối lại thành quả này giữa các tầng lớp dân cư và vùng miền để
thúc đẩy công bằng xã hội.
Một số chính sách cần chú ý là phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
kết nối, đặc biệt là giao thông và thông tin giữa các vùng trọng điểm và
vùng sâu, vùng xa để xóa bỏ cô lập và phát triển vùng chậm. Cần giảm
bớt các hạn chế về di cư, như quản lý hộ khẩu và quyền tiếp cận dịch vụ
xã hội cho lao động di cư. Đồng thời, tăng cường cung cấp dịch vụ giáo
dục, sức khỏe và xã hội tại các vùng sâu, vùng xa để nâng cao kiến thức
và kỹ năng cho người dân, giúp họ tham gia tạo thu nhập.
Thứ hai, thực hiện chính sách tài chính bao trùm. Một hệ thống tài
chính bao trùm cần bảo đảm rằng tất cả người nghèo và nhóm yếu thế có
thể tiếp cận các dịch vụ tài chính mà không gặp rào cản phân biệt nào.
Điều này cho phép họ tiết kiệm và vay mượn để tích lũy của cải, đầu tư
vào giáo dục và kinh doanh, từ đó nâng cao mức sống.
Thứ ba, cải thiện chính sách phân phối thành quả tăng trưởng. Quá
trình tăng trưởng kinh tế cần được kiểm soát thường xuyên và chặt chẽ
thông qua các chỉ tiêu phát triển xã hội, tập trung vào xóa đói giảm
nghèo, công bằng xã hội, giải quyết việc làm và phát triển toàn diện cho
con người. Thành quả tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với việc nâng
cao mức sống cho người dân thông qua các chính sách phân phối và phân
phối lại thu nhập.
Cuối cùng, xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội hiện đại. Một hệ thống
bảo trợ xã hội bao trùm cần bảo đảm tính đồng bộ, bao phủ và thực hiện
tốt vai trò phòng ngừa, giảm và khắc phục rủi ro cho người dân.
Sự phát triển của chính sách trợ giúp xã hội phải gắn liền với quá
trình phát triển kinh tế-xã hội, dựa trên nền tảng của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc quy hoạch phát triển mạng lưới
cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội cần phù hợp với điều kiện kinh
tế-xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng dịch vụ tiệm cận với các
nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu trợ giúp của người dân và
hướng tới mục tiêu phát triển xã hội công bằng và hiệu quả.
TS. HỒ THANH THỦY (ct.qdnd.vn)