1.Trải qua 43 năm hình thành và phát triển, đến nay cả nước ta có 65 đài truyền hình (TH), đài phát thanh và truyền hình (PT-TH), bao gồm: 1 Đài TH quốc gia (Đài TH Việt Nam - VTV); 1 Đài TH Kỹ thuật số (VTC) của Bộ Thông tin và Truyền thông; 63 đài TH, đài PT-TH của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (1).
Riêng Đài TH Việt Nam còn có 5 trung tâm truyền hình khu vực đặt tại một số địa phương. Các trung tâm này vừa sản xuất chương trình cho các kênh toàn quốc của VTV, vừa sản xuất, phát sóng kênh chương trình riêng của trung tâm tại địa phương.
Ngoài ra, còn có 6 đơn vị hoạt động truyền hình không có hạ tầng phát sóng truyền hình riêng, đó là Kênh Truyền hình Đài TN Việt Nam (VOVTV), Kênh Truyền hình Công an nhân dân (ANTV) của Bộ Công an; Kênh Truyền hình Thông tấn (VNews) của Thông tấn xã Việt Nam, Kênh Truyền hình Quốc phòng (TVQP), Kênh Truyền hình Nhân dân, Kênh Truyền hình Quốc hội (2).
Tính đến tháng 1-2014, cả nước có có 253 kênh truyền hình, trong đó có 105 kênh quảng bá (3) (kể cả 10 kênh thiết yếu quốc gia và 63 kênh thiết yếu địa phương), 73 kênh truyền hình trả tiền trong nước và 75 kênh truyền hình trả tiền nước ngoài (trong đó có 39 kênh truyền hình nước ngoài đã được cấp phép biên tập).
Hằng năm, Nhà nước cấp ngân sách đầu tư phát triển và chi thường xuyên cho ngành truyền hình trên 1.000 tỷ đồng. Số tiền này chưa bao gồm các chương trình mục tiêu, chi đặt hàng của các bộ, ngành, địa phương cho các chương trình truyền hình phục vụ nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền thiết yếu của quốc gia và đầu tư của các địa phương cho hoạt động của các đài... Trong đó, các đài PT-TH địa phương được Nhà nước cấp hơn 300 tỷ đồng. Các kênh thiết yếu của Trung ương, bộ, ngành được Nhà nước cấp hơn 700 tỷ đồng.
Nhìn chung, hoạt động truyền hình của nước ta đã có những bước tiến mạnh mẽ, quan trọng, thể hiện trên những mặt sau:
Thứ nhất, các kênh truyền hình quảng bá trong nước về cơ bản đã thực hiện tốt chức năng là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, là diễn đàn của nhân dân, thông tin, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu đổi mới của đất nước và của từng địa phương, nhất là tuyên truyền nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; củng cố quốc phòng - an ninh; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và mở rộng hoạt động đối ngoại; đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu giải trí và nâng cao kiến thức cho người dân. Phần lớn các đài TH, đài PT-TH đã vươn lên, tiếp tục có bước phát triển cả về số lượng, chất lượng đội ngũ; cơ sở vật chất, kỹ thuật; điều kiện, phương tiện làm việc...
Thứ hai, các kênh, chương trình liên kết không ngừng cải tiến, nâng cao, thường xuyên tạo phong cách mới, phương pháp mới trong sản xuất chương trình, nâng cao tính hấp dẫn, thu hút đông đảo người xem; giảm bớt tác động của các chương trình truyền hình nước ngoài.
Thứ ba, các kênh truyền hình nước ngoài phát tại Việt Nam, đặc biệt là kênh chương trình giải trí như: Phim, ca nhạc, thể thao, khoa giáo, thiếu nhi... được công chúng đánh giá có chất lượng cao hơn nhiều kênh sản xuất trong nước.
Bên cạnh những thành tựu, ưu điểm, cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể là:
Một số nội dung kênh truyền hình còn đơn điệu, thực hiện chưa tốt chức năng xây dựng, giáo dục nhân cách và phát triển trí tuệ cho người Việt Nam. Nhiều đài chưa đủ nhân lực để biên tập, biên dịch các chương trình truyền hình nước ngoài, dẫn đến để lọt một số chương trình, phim có nội dung bạo lực, quan điểm về tình yêu, tình dục không phù hợp với lối sống, văn hóa của Việt Nam. Một số chương trình có biểu hiện cổ vũ lối sống hưởng thụ, lệch lạc về văn hóa, về nhân cách con người, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Sự du nhập ồ ạt các sản phẩm này làm gia tăng mối ngăn cách giữa các tầng lớp trong xã hội, không có lợi cho xây dựng sự đồng thuận, gắn bó cộng đồng.
Một số kênh tin tức, tổng hợp, dù không thường xuyên, nhưng trong những thời điểm nhất định đưa một số thông tin, quan điểm không phù hợp với chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, thậm chí sai trái, nhất là khi đề cập các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, lịch sử và thực tế ở Việt Nam, gây bất lợi về chính trị, phương hại đến đại đoàn kết dân tộc.
Số kênh, chương trình nước ngoài phát tại Việt Nam và số chương trình trong nước được sản xuất theo kịch bản nước ngoài có nội dung không phù hợp với truyền thống Việt Nam, phát trên các kênh trong nước ngày càng tăng, đặc biệt là phim nước ngoài. Khảo sát tại một số đài PT-TH địa phương có thời lượng phát sóng trên 18 giờ/ngày thì tỷ lệ phát sóng chương trình phim chiếm đến 40-50 % tổng thời lượng, trong đó phim truyện nước ngoài chiếm trên 50% thời lượng phát sóng chương trình phim (4).
Một số đài thực hiện chưa nghiêm túc các quy định trong Thông tư số 19/2009/TT-BTTTT, ngày 28-5-2009 Quy định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình như: Thực hiện hoạt động liên kết trong kênh thời sự - chính trị tổng hợp vượt quá 30% tổng thời lượng chương trình phát sóng lần 1 của kênh. Một số đài chỉ đứng trên danh nghĩa ký và đóng dấu giấy xin phép, còn việc xây dựng, thẩm định đề án kênh, sản xuất và phát sóng do phía đối tác làm toàn bộ; thậm chí có đài còn cho phép đặt sever tại đơn vị liên kết, không bảo đảm an ninh thông tin. Một số đài do sức ép tạo nguồn thu, để đối tác can thiệp, thậm chí chi phối nội dung phát sóng theo xu hướng thương mại hóa. Thực tế đã xuất hiện không ít chương trình có nội dung hời hợt, gây phản cảm trong xã hội; thiếu yếu tố nhân văn và tính định hướng, tính giáo dục. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ tạo ra những thế hệ người Việt lệ thuộc vào món ăn tinh thần ngoại, xa dần cốt cách dân tộc, ít gắn bó cả về tri thức, tình cảm đối với lịch sử dân tộc, văn hoá tinh thần của người Việt.
Các hệ thống, đơn vị kinh doanh truyền hình vì lợi ích riêng đua nhau mua bản quyền truyền hình nước ngoài để tạo lợi thế cạnh tranh về thuê bao và quảng cáo, đã đẩy giá bản quyền truyền hình nước ngoài liên tục tăng cao bất thường, gây tổn hại chung cho các đơn vị trong nước và người xem truyền hình (5).
Hạ tầng kỹ thuật truyền dẫn phát sóng của các đài, các kênh truyền hình đang đầu tư chồng chéo, thiếu sự liên kết, hợp tác nên rất lãng phí.
Nguyên nhân chính của hạn chế, yếu kém nêu trên là:
Cơ quan quản lý Nhà nước chưa xây dựng được quy hoạch hệ thống các đài TH, đài PT-TH và các kênh truyền hình. Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của truyền hình còn thiếu đồng bộ; một số văn bản không còn phù hợp với thực tiễn chậm được điều chỉnh. Công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan chỉ đạo và quản lý Nhà nước chưa thường xuyên; xử lý các hành vi vi phạm phạm pháp luật chưa nghiêm, chưa kịp thời.
Công tác thẩm định hồ sơ cấp phép hoạt động truyền hình chưa thực sự chặt chẽ, thậm chí có phần dễ dãi dẫn đến sự bung ra ồ ạt các kênh truyền hình, trong đó có cả các kênh truyền hình nước ngoài phát tại Việt Nam. Trong khi đó các nguồn lực, nhất là chất lượng nguồn nhân lực không đảm bảo, tạo ra nhiều sản phẩm, kênh chương trình chất lượng thấp, gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Mô hình tổ chức các đài PT-TH không thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Nhà nước đầu tư cho phát triển sản xuất chương trình dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, làm giảm hiệu quả đầu tư.
Vai trò của một số cơ quan chủ quản còn mờ nhạt, nhất là công tác quản lý cán bộ. Năng lực, trình độ, kinh nghiệm chỉ đạo, quản lý của cơ quan chủ quản và lãnh đạo một số đài TH, đài PT-TH còn hạn chế, non yếu. Lãnh đạo nhiều đài PT-TH địa phương không theo kịp sự phát triển của công nghệ hiện đại. Một bộ phận cán bộ biên tập viên, phóng viên truyền hình yếu về bản lĩnh chính trị, trách nhiệm xã hội, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp.
2. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động truyền hình, tránh lãng phí nguồn nhân lực của xã hội, khắc phục cho được những hạn chế, bất cập, cần tạo sự đồng bộ trong thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nên chăng, đã đến thời điểm rất cần phải rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động truyền hình, cho phù hợp với thực tế phát triển và quản lý tại Việt Nam và xu hướng phát triển báo chí trên thế giới. Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ quản đối với cơ quan báo chí thuộc quyền, cơ chế ủy quyền chịu trách nhiệm về nội dung của người đứng đầu theo quy định của pháp luật về báo chí. Khi cấp phép các kênh mới, kể cả kênh truyền hình nước ngoài phát sóng tại Việt Nam phải có sự chấp thuận của cơ quan thẩm quyền cấp trên.
Hai là, quy hoạch lại hệ thống truyền hình theo hướng tinh gọn, chất lượng cao, tránh chồng chéo, trùng lặp về chức năng và nội dung gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Trước mắt, trong khi chưa quy hoạch tổng thể hệ thống truyền hình, từ nay đến năm 2016 tạm ngừng cấp giấy phép ra kênh mới kể cả kênh trong nước và nước ngoài. Tập trung xây dựng truyền hình quốc gia thực sự mạnh, làm chủ lực. Các Trung tâm truyền hình khu vực của Truyền hình Việt Nam chỉ được sản xuất chương trình, cung cấp cho Truyền hình Việt Nam phát sóng, không được phép phát sóng như một đài TH. Chọn lọc các kênh nước ngoài có chất lượng cao, phù hợp với chính trị, kinh tế, văn hoá của đất nước cho phép phát sóng trong nước. Rút giấy phép các kênh không phù hợp các tiêu chí nêu trên. Khuyến khích các đài sử dụng chung hạ tầng, tránh đầu tư chồng chéo lãng phí. Rà soát lộ trình số hóa, có biện pháp chế tài đối với đơn vị không thực hiện đúng lộ trình.
Ba là, cần phân định rõ giữa kênh truyền hình làm các chương trình thiết yếu phục vụ chính trị với các chương trình thương mại, giải trí. Chỉ cấp ngân sách nhà nước cho các kênh, chương trình làm nhiệm vụ chính trị (tuyên truyền đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước; giáo dục nhân cách và phát triển trí tuệ của người Việt Nam). Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải làm giảm hiệu quả đầu tư. Các kênh, chương trình giải trí, thương mại phải tự hạch toán, nhưng nội dung phải mang tính giáo dục, nâng cao kiến thức cho cộng đồng, phù hợp với chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, văn hóa, lối sống của dân tộc.
Bốn là, thành lập ngân hàng dữ liệu và kho lưu trữ tư liệu số ở quy mô quốc gia, lưu trữ các tư liệu số để được khai thác, sử dụng chung một cách thuận tiện, hiệu quả. Kết hợp cơ chế quyền sử dụng tương ứng với đóng góp (đơn vị, cá nhân có thể khai thác tương ứng với đóng góp của chính đơn vị, cá nhân đó vào kho dữ liệu) và cơ chế thương mại (mua bán bản quyền và sử dụng dịch vụ lưu trữ). Đây sẽ là nguồn thu lâu dài của các đơn vị tham gia, đồng thời sẽ tiết kiệm cho hệ thống truyền hình một chi phí rất lớn và góp phần nâng cao chất lượng nội dung chương trình truyền hình.
Năm là, hoàn chỉnh các quy định về kinh doanh, dịch vụ, cơ chế, chính sách tài chính, thuế trong hoạt động truyền hình. Có chính sách khuyến khích phù hợp về thuế (giảm thuế, miễn thuế) với việc đầu tư sản xuất các chương trình, kênh chương trình thuộc loại hình truyền hình công ích do Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ. Xây dựng, bổ sung thêm các điều kiện có tính chất “rào cản” phi thuế quan (không vi phạm các cam kết với WTO) để hạn chế việc lạm dụng các chương trình, kênh chương trình nước ngoài, các định dạng chương trình nước ngoài.
Sáu là, kiện toàn tổ chức, bộ máy và nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về truyền hình, khắc phục tình trạng chồng chéo, phân công, phân cấp không rõ ràng giữa các cơ quan quản lý ở giữa Trung ương và địa phương. Đầu tư thiết bị kỹ thuật hiện đại, bảo đảm hiệu quả công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động truyền hình trong phạm vi cả nước. Các cơ quan lãnh đạo và quản lý báo chí cần quan tâm đến công tác điều tra xã hội học về định lượng khán giả truyền hình, từ đó có sự điều chỉnh thông tin kịp thời, tránh ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng và nhận thức của xã hội.
Bảy là, tăng cường lực lượng thanh tra chuyên ngành báo chí. Rà soát, xem xét, rút giấy phép hoạt động đối với các kênh truyền hình trong nước và nước ngoài chưa đủ điều kiện hoạt động theo quy định của pháp luật về hoạt động truyền hình, vi phạm pháp luật về báo chí đã bị xử lý nhưng vẫn tái phạm./.
Thuận Doãn
------------------------
(1) Riêng Thành phố Hồ Chí Minh Đài TH thành phố (HTV) và Đài TN Nhân dân thành phố hoạt động độc lập. Các địa phương còn lại có bộ máy chung là đài PT-TH.
(2) Kênh TH Quốc hội và TH Nhân dân đã được cấp phép, đang trong quá trình chuẩn bị đi vào hoạt động.
(3) Tính cả kênh TH Nhân dân và TH Quốc hội.
(4) Số liệu khảo sát trong báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông.
(5) Ví dụ như việc đàm phán bản quyền truyền hình Giải Bóng đá Ngoại hạng Anh.