Chủ Nhật, 13/10/2024
Nghiệp vụ công tác tuyên giáo
Thứ Năm, 20/3/2014 22:14'(GMT+7)

Để nâng cao hiệu quả hoạt động truyền hình



1.Trải qua 43 năm hình thành và phát triển, đến nay cả nước ta có 65 đài truyền hình (TH), đài phát thanh và truyền hình (PT-TH), bao gồm:  1 Đài TH quốc gia (Đài TH Việt Nam - VTV); 1 Đài TH Kỹ thuật số (VTC) của Bộ Thông tin và Truyền thông; 63 đài TH, đài PT-TH của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (1).
Riêng Đài TH Việt Nam còn có 5 trung tâm truyền hình khu vực đặt tại một số địa phương. Các trung tâm này vừa sản xuất chương trình cho các kênh toàn quốc của VTV, vừa sản xuất, phát sóng kênh chương trình riêng của trung tâm tại địa phương.
 Ngoài ra, còn có 6 đơn vị hoạt động truyền hình không có hạ tầng phát sóng truyền hình riêng, đó là Kênh Truyền hình Đài TN Việt Nam (VOVTV), Kênh Truyền hình Công an nhân dân (ANTV) của Bộ Công an; Kênh Truyền hình Thông tấn (VNews) của Thông tấn xã Việt Nam, Kênh Truyền hình Quốc phòng (TVQP), Kênh Truyền hình Nhân dân, Kênh Truyền hình Quốc hội  (2).
Tính đến tháng 1-2014, cả nước có có 253 kênh truyền hình, trong đó có 105 kênh quảng bá (3) (kể cả 10 kênh thiết yếu quốc gia và 63 kênh thiết yếu địa phương), 73 kênh truyền hình trả tiền trong nước và 75 kênh truyền hình trả tiền nước ngoài (trong đó có 39 kênh truyền hình nước ngoài đã được cấp phép biên tập).
Hằng năm, Nhà nước cấp ngân sách đầu tư phát triển và chi thường xuyên cho ngành truyền hình trên 1.000 tỷ đồng. Số tiền này chưa bao gồm các chương trình mục tiêu, chi đặt hàng của các bộ, ngành, địa phương cho các chương trình truyền hình phục vụ nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền thiết yếu của quốc gia và đầu tư của các địa phương cho hoạt động của các đài... Trong đó, các đài PT-TH địa phương được Nhà nước cấp hơn 300 tỷ đồng. Các kênh thiết yếu của Trung ương, bộ, ngành được Nhà nước cấp hơn 700 tỷ đồng.
Nhìn chung, hoạt động truyền hình của nước ta đã có những bước tiến mạnh mẽ, quan trọng, thể hiện trên những mặt sau:
Thứ nhất, các kênh truyền hình quảng bá trong nước về cơ bản đã thực hiện tốt chức năng là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, là diễn đàn của nhân dân, thông tin, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu đổi mới của đất nước và của từng địa phương, nhất là tuyên truyền nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; củng cố quốc phòng - an ninh; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và mở rộng hoạt động đối ngoại; đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu giải trí và nâng cao kiến thức cho người dân. Phần lớn các đài TH, đài PT-TH đã vươn lên, tiếp tục có bước phát triển cả về số lượng, chất lượng đội ngũ; cơ sở vật chất, kỹ thuật; điều kiện, phương tiện làm việc...
Thứ hai, các kênh, chương trình liên kết không ngừng cải tiến, nâng cao, thường xuyên tạo phong cách mới, phương pháp mới trong sản xuất chương trình, nâng cao tính hấp dẫn, thu hút đông đảo người xem; giảm bớt tác động của các chương trình truyền hình nước ngoài.
Thứ ba, các kênh truyền hình nước ngoài phát tại Việt Nam, đặc biệt là kênh chương trình giải trí như: Phim, ca nhạc, thể thao, khoa giáo, thiếu nhi... được công chúng đánh giá có chất lượng cao hơn nhiều kênh sản xuất trong nước.
Bên cạnh những thành tựu, ưu điểm, cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể là:
Một số nội dung kênh truyền hình còn đơn điệu, thực hiện chưa tốt chức năng xây dựng, giáo dục nhân cách và phát triển trí tuệ cho người Việt Nam. Nhiều đài chưa đủ nhân lực để biên tập, biên dịch các chương trình truyền hình nước ngoài, dẫn đến để lọt một số chương trình, phim có nội dung bạo lực, quan điểm về tình yêu, tình dục không phù hợp với lối sống, văn hóa của Việt Nam. Một số chương trình có biểu hiện cổ vũ lối sống hưởng thụ, lệch lạc về văn hóa, về nhân cách con người, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Sự du nhập ồ ạt các sản phẩm này làm gia tăng mối ngăn cách giữa các tầng lớp trong xã hội, không có lợi cho xây dựng sự đồng thuận, gắn bó cộng đồng.
Một số kênh tin tức, tổng hợp, dù không thường xuyên, nhưng trong những thời điểm nhất định đưa một số thông tin, quan điểm không phù hợp với chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, thậm chí sai trái, nhất là khi đề cập các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, lịch sử và thực tế ở Việt Nam, gây bất lợi về chính trị, phương hại đến đại đoàn kết dân tộc.
Số kênh, chương trình nước ngoài phát tại Việt Nam và số chương trình trong nước được sản xuất theo kịch bản nước ngoài có nội dung không phù hợp với truyền thống Việt Nam, phát trên các kênh trong nước ngày càng tăng, đặc biệt là phim nước ngoài. Khảo sát tại một số đài PT-TH địa phương có thời lượng phát sóng trên 18 giờ/ngày thì tỷ lệ phát sóng chương trình phim chiếm đến 40-50 % tổng thời lượng, trong đó phim truyện nước ngoài chiếm trên 50% thời lượng phát sóng chương trình phim (4).
Một số đài thực hiện chưa nghiêm túc các quy định trong Thông tư số 19/2009/TT-BTTTT, ngày 28-5-2009 Quy định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình như: Thực hiện hoạt động liên kết trong kênh thời sự - chính trị tổng hợp vượt quá 30% tổng thời lượng chương trình phát sóng lần 1 của kênh. Một số đài chỉ đứng trên danh nghĩa ký và đóng dấu giấy xin phép, còn việc xây dựng, thẩm định đề án kênh, sản xuất và phát sóng do phía đối tác làm toàn bộ; thậm chí có đài còn cho phép đặt sever tại đơn vị liên kết, không bảo đảm an ninh thông tin. Một số đài do sức ép tạo nguồn thu, để đối tác can thiệp, thậm chí chi phối nội dung phát sóng theo xu hướng thương mại hóa. Thực tế đã xuất hiện không ít chương trình có nội dung hời hợt, gây phản cảm trong xã hội; thiếu yếu tố nhân văn và tính định hướng, tính giáo dục. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ tạo ra những thế hệ người Việt lệ thuộc vào món ăn tinh thần ngoại, xa dần cốt cách dân tộc, ít gắn bó cả về tri thức, tình cảm đối với lịch sử dân tộc, văn hoá tinh thần của người Việt.
Các hệ thống, đơn vị kinh doanh truyền hình vì lợi ích riêng đua nhau mua bản quyền truyền hình nước ngoài để tạo lợi thế cạnh tranh về thuê bao và quảng cáo, đã đẩy giá bản quyền truyền hình nước ngoài liên tục tăng cao bất thường, gây tổn hại chung cho các đơn vị trong nước và người xem truyền hình (5).
Hạ tầng kỹ thuật truyền dẫn phát sóng của các đài, các kênh truyền hình đang đầu tư chồng chéo, thiếu sự liên kết, hợp tác nên rất lãng phí.
Nguyên nhân chính của hạn chế, yếu kém nêu trên là:
Cơ quan quản lý Nhà nước chưa xây dựng được quy hoạch hệ thống các đài TH, đài PT-TH và các kênh truyền hình. Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của truyền hình còn thiếu đồng bộ; một số văn bản không còn phù hợp với thực tiễn chậm được điều chỉnh. Công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan chỉ đạo và quản lý Nhà nước chưa thường xuyên; xử lý các hành vi vi phạm phạm pháp luật chưa nghiêm, chưa kịp thời.
Công tác thẩm định hồ sơ cấp phép hoạt động truyền hình chưa thực sự chặt chẽ, thậm chí có phần dễ dãi dẫn đến sự bung ra ồ ạt các kênh truyền hình, trong đó có cả các kênh truyền hình nước ngoài phát tại Việt Nam. Trong khi đó các nguồn lực, nhất là chất lượng nguồn nhân lực không đảm bảo, tạo ra nhiều sản phẩm, kênh chương trình chất lượng thấp, gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Mô hình tổ chức các đài PT-TH không thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Nhà nước đầu tư cho phát triển sản xuất chương trình dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, làm giảm hiệu quả đầu tư.
Vai trò của một số cơ quan chủ quản còn mờ nhạt, nhất là công tác quản lý cán bộ. Năng lực, trình độ, kinh nghiệm chỉ đạo, quản lý của cơ quan chủ quản và lãnh đạo một số đài TH, đài PT-TH còn hạn chế, non yếu. Lãnh đạo nhiều đài PT-TH địa phương không theo kịp sự phát triển của công nghệ hiện đại. Một bộ phận cán bộ biên tập viên, phóng viên truyền hình yếu về bản lĩnh chính trị, trách nhiệm xã hội, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp.
2. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động truyền hình, tránh lãng phí nguồn nhân lực của xã hội, khắc phục cho được những hạn chế, bất cập, cần tạo sự đồng bộ trong thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nên chăng, đã đến thời điểm rất cần phải rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động truyền hình, cho phù hợp với thực tế phát triển và quản lý tại Việt Nam và xu hướng phát triển báo chí trên thế giới. Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ quản đối với cơ quan báo chí thuộc quyền, cơ chế ủy quyền chịu trách nhiệm về nội dung của người đứng đầu theo quy định của pháp luật về báo chí. Khi cấp phép các kênh mới, kể cả kênh truyền hình nước ngoài phát sóng tại Việt Nam  phải có sự chấp thuận của cơ quan thẩm quyền cấp trên.
Hai là, quy hoạch lại hệ thống truyền hình theo hướng tinh gọn, chất lượng cao, tránh chồng chéo, trùng lặp về chức năng và nội dung gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Trước mắt, trong khi chưa quy hoạch tổng thể hệ thống truyền hình, từ nay đến năm 2016 tạm ngừng cấp giấy phép ra kênh mới kể cả kênh trong nước và nước ngoài. Tập trung xây dựng truyền hình quốc gia thực sự mạnh, làm chủ lực. Các Trung tâm truyền hình khu vực của Truyền hình Việt Nam chỉ được sản xuất chương trình, cung cấp cho Truyền hình Việt Nam phát sóng, không được phép phát sóng như một đài TH. Chọn lọc các kênh nước ngoài có chất lượng cao, phù hợp với chính trị, kinh tế, văn hoá của đất nước cho phép phát sóng trong nước. Rút giấy phép các kênh không phù hợp các tiêu chí nêu trên. Khuyến khích các đài sử dụng chung hạ tầng, tránh đầu tư chồng chéo lãng phí. Rà soát lộ trình số hóa, có biện pháp chế tài đối với đơn vị không thực hiện đúng lộ trình.
Ba là, cần phân định rõ giữa kênh truyền hình làm các chương trình thiết yếu phục vụ chính trị với các chương trình thương mại, giải trí. Chỉ cấp ngân sách nhà nước cho các kênh, chương trình làm nhiệm vụ chính trị (tuyên truyền đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước; giáo dục nhân cách và phát triển trí tuệ của người Việt Nam). Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải làm giảm hiệu quả đầu tư. Các kênh, chương trình giải trí, thương mại phải tự hạch toán, nhưng nội dung phải mang tính giáo dục, nâng cao kiến thức cho cộng đồng, phù hợp với chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, văn hóa, lối sống của dân tộc.
Bốn là, thành lập ngân hàng dữ liệu và kho lưu trữ tư liệu số ở quy mô quốc gia, lưu trữ các tư liệu số để được khai thác, sử dụng chung một cách thuận tiện, hiệu quả. Kết hợp cơ chế quyền sử dụng tương ứng với đóng góp (đơn vị, cá nhân có thể khai thác tương ứng với đóng góp của chính đơn vị, cá nhân đó vào kho dữ liệu) và cơ chế thương mại (mua bán bản quyền và sử dụng dịch vụ lưu trữ). Đây sẽ là nguồn thu lâu dài của các đơn vị tham gia, đồng thời sẽ tiết kiệm cho hệ thống truyền hình một chi phí rất lớn và góp phần nâng cao chất lượng nội dung chương trình truyền hình.
Năm là, hoàn chỉnh các quy định về kinh doanh, dịch vụ, cơ chế, chính sách tài chính, thuế trong hoạt động truyền hình. Có chính sách khuyến khích phù hợp về thuế (giảm thuế, miễn thuế) với việc đầu tư sản xuất các chương trình, kênh chương trình thuộc loại hình truyền hình công ích do Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ. Xây dựng, bổ sung thêm các điều kiện có tính chất “rào cản” phi thuế quan (không vi phạm các cam kết với WTO) để hạn chế việc lạm dụng các chương trình, kênh chương trình nước ngoài, các định dạng chương trình nước ngoài.
Sáu là, kiện toàn tổ chức, bộ máy và nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về truyền hình, khắc phục tình trạng chồng chéo, phân công, phân cấp không rõ ràng giữa các cơ quan quản lý ở giữa Trung ương và địa phương. Đầu tư thiết bị kỹ thuật hiện đại, bảo đảm hiệu quả công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động truyền hình trong phạm vi cả nước. Các cơ quan lãnh đạo và quản lý báo chí cần quan tâm đến công tác điều tra xã hội học về định lượng khán giả truyền hình, từ đó có sự điều chỉnh thông tin kịp thời, tránh ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng và nhận thức của xã hội.
Bảy là, tăng cường lực lượng thanh tra chuyên ngành báo chí. Rà soát, xem xét, rút giấy phép hoạt động đối với các kênh truyền hình trong nước và nước ngoài chưa đủ điều kiện hoạt động theo quy định của pháp luật về hoạt động truyền hình, vi phạm pháp luật về báo chí đã bị xử lý nhưng vẫn tái phạm./.

Thuận Doãn
------------------------
(1) Riêng Thành phố Hồ Chí Minh Đài TH thành phố (HTV) và Đài TN Nhân dân thành phố hoạt động độc lập. Các địa phương còn lại có bộ máy chung là đài PT-TH.
(2) Kênh TH Quốc hội và TH Nhân dân đã được cấp phép, đang trong quá trình chuẩn bị đi vào hoạt động.
(3) Tính cả kênh TH Nhân dân và TH Quốc hội.
(4) Số liệu khảo sát trong báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông.
(5) Ví dụ như việc đàm phán bản quyền truyền hình Giải Bóng đá Ngoại hạng Anh.
Phản hồi

Các tin khác

Phát huy CNTT trong giảng dạy các môn lý luận chính trị

Trước đây, trong đào tạo theo mô hình niên chế thì việc giảng dạy các môn lý luận chính trị [LLCT] ở bậc đại học chủ yếu theo phương pháp dạy học truyền thống [PPDHTT] “thầy đọc, trò ghi” một cách thụ động, chưa thực sự gây hứng thú và phát huy tính tích cực, chủ động của người học. Hiện nay, trong đào tạo theo mô hình tín chỉ với vị trí trung tâm đã được hoán đổi từ “thầy” sang “trò”, lấy “tự học làm cốt” thì vấn đề đặt ra là phải làm sao phát huy được tính tích cực, chủ động của người học. Hơn nữa, trong xu thế đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo [GD&ĐT] hiện nay cùng với đổi mới về chương trình, nội dung, giáo trình… thì vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy là vấn đề hết sức quan trọng đang đặt ra cho đội ngũ giảng viên trong quá trình giảng dạy, nhất là giảng dạy các môn LLCT vốn “trừu tượng”, “khô khan”… Phương pháp dạy học tích cực [PPDHTC] được hiểu là cách thức mà cả người dạy và người học tiến hành theo một quy trình, kế hoạch, kịch bản nhất định nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của người học trong quá trình nhận thức. Để có thể áp dụng một cách hiệu quả phương pháp này đòi hỏi giảng viên phải luôn biết khai thác và sử dụng các trang thiết bị hiện đại làm “công cụ hỗ trợ” đắc lực cho quá trình dạy học. Còn học viên với tư cách là “diễn viên chính” giữ vai trò trung tâm trong quá trình dạy học phải tích cực, chủ động, sáng tạo, biết phối hợp chặt chẽ với giảng viên trong quá trình lĩnh hội tri thức thông qua các phương tiện dạy học hiện đại liên quan đến công nghệ thông tin [CNTT] như mạng Internet, truyền hình trực tuyến, máy vi tính, laptop cá nhân... nghĩa là CNTT là công cụ không thể thiếu trong quá trình dạy học hiện đại, qua đó cho chúng ta thấy rằng giữa PPDHTC và CNTT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong quá trình dạy học. Việc dạy và học trong thời đại mới luôn chứa đựng một khối lư­ợng tri thức, thông tin lớn, bùng nổ và tăng nhanh. Nội dung thông tin ngày càng chuyên sâu và phức tạp khiến việc dạy học theo phương pháp truyền thống không đáp ứng được, tất yếu đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận thông tin mới, nên phải đổi mới cách dạy và học. Nội dung đào tạo có nhiều biến đổi, nên người thầy giờ đây “chỉ nên giới thiệu những giá trị cốt lõi, còn lại chủ yếu là gợi mở, giúp cách học, cách tiếp cận, cách phân tích và tổng hợp, giải quyết vấn đề, tức là nhằm phát triển năng lực”[1]. Tức là, thay vì dạy kiến thức thì người dạy phải trang bị cho người học cách học, phương pháp tự học một cách hiệu quả, nói cách khác thầy giáo giờ đây không phải là “thầy dạy” mà phải là “thầy học”. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ nói chung và CNTT nói riêng đã tác động sâu sắc đến sự phát triển của tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt, việc ứng dụng CNTT trong dạy học là xu thế phát triển tất yếu của nền giáo dục hiện nay. Ứng dụng CNTT vào dạy học là một xu hướng hiện đại hóa quá trình dạy và học, làm thay đổi cách dạy và cách học, giúp người học tham gia học tập một cách chủ động, tích cực và sáng tạo, tăng cường tính trực quan, góp phần nâng cao chất lượng lĩnh hội và nắm vững kiến thức, phát triển năng lực tư duy độc lập, sáng tạo của người học. Hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy học đã được chứng minh bằng thực tiễn sự phát triển nhanh chóng của GD&ĐT trong nước và trên thế giới những năm qua, điều đó đã khẳng định tính ưu việt của nó đối với sự phát triển của nền giáo dục hiện đại. Chính vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học bằng việc ứng dụng CNTT là một chủ đề lớn được UNESCO đưa ra thành chương trình của thế kỷ XXI và dự đoán sẽ tạo ra sự thay đổi căn bản của nền giáo dục. Quán triệt quan điểm đó, trong Chỉ thị 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cũng đã nêu rõ: Đối với giáo dục và đào tạo, CNTT có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi phương pháp, phương thức dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới một xã hội học tập. Trong những năm gần đây, việc áp dụng PPDHTC với sự hỗ trợ của CNTT đã được quan tâm nghiên cứu và triển khai thực hiện ở hầu hết các trường đại học trên toàn Quốc. Trên thực tế, qua khảo sát ở một số trường đại học, cụ thể là ở khối các trường đào tạo về chuyên môn kỹ thuật như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Xây dựng, Đại học Giao thông vận tải, Đại học Công nghiệp Hà Nội, Học viện Công nghệ bưu chính viễn thông, Học viện Kỹ thuật mật mã, Học viện Kỹ thuật Quân sự… cho thấy, mặc dù các học viện, nhà trường này đều là những trường đại học có bề dày lịch sử trong đào tạo ở các chuyên ngành khác nhau thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật, song việc áp dụng PPDHTC với sự hỗ trợ của CNTT nhìn chung hiện chưa được áp dụng triệt để, đồng bộ nên chưa phát huy hết tác dụng và hiệu quả trong giảng dạy nói chung, trong giảng dạy LLCT nói riêng, qua đó đã và đang xuất hiện những hạn chế, bất cập nhất định mà nguyên nhân của nó có thể do nhận thức của đội ngũ giảng viên về phương pháp này chưa đầy đủ nên còn lưỡng lự, chưa mạnh dạn áp dụng đổi mới; có thể do trình độ khai thác, sử dụng CNTT còn hạn chế, mà bản thân đã “có tuổi”, ngại học tập bổ túc nên lảng tránh việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy; hoặc là do cơ sở hạ tầng và các trang thiết bị CNTT của cơ sở đào tạo còn hạn chế, thiếu đồng bộ nên việc triển khai ứng dụng CNTT của đội ngũ giảng viên phục vụ cho quá trình dạy học theo phương pháp tích cực gặp khó khăn… Trong bối cảnh chung đó, việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy LLCT theo học chế tín chỉ ở các trường đại học thời gian qua đã đạt được những kết quả cơ bản, đánh dấu bước chuyển biến mới về nhận thức tư duy của đội ngũ cán bộ, giảng viên từ chỗ sử dụng phương pháp “truyền thống” là chủ yếu chuyển sang PPDHTC với sự trợ giúp của CNTT vào nghiên cứu và giảng dạy nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo thực hiện có hiệu quả mục tiêu, yêu cầu đào tạo của từng trường. Hiện nay, hầu hết giảng viên giảng dạy LLCT trong các trường đại học đều có thể sử dụng laptop, máy vi tính để khai thác các nguồn tư liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu, biên soạn các chuyên đề bài giảng. Một số giảng viên có khả năng sử dụng khá thành thạo phần mềm cơ bản để tra cứu, nâng cao kiến thức chuyên môn, hỗ trợ soạn giảng, làm đề thi, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của người học một cách tự giác và hiệu quả. Tuy nhiên, những kết quả đã đạt được về ứng dụng CNTT trong giảng dạy LLCT ở các trường đại học vẫn còn khiêm tốn, những khó khăn, vướng mắc và những thách thức vẫn còn ở phía trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Hiện nay, trình độ, kiến thức về CNTT, kỹ năng sử dụng máy tính và các phương tiện hỗ trợ của giảng viên không đồng đều, kỹ năng về CNTT của một số giảng viên chưa đủ vượt ngưỡng trong sử dụng các thao tác cơ bản, dẫn đến sự né tránh. Bên cạnh đó, phương pháp dạy học “truyền thống” chưa được xoá bỏ triệt để, vẫn còn tồn tại như một lối mòn, thói quen khó thay đổi, sự tương tác giữa người và máy trong hỗ trợ dạy học còn lúng túng, chưa khai thác và phát huy đầy đủ vai trò, tính ưu việt của CNTT trong dạy học để khắc phục những hạn chế, nhược điểm của phương pháp dạy học truyền thống. Đây là một trở ngại lớn trong việc triển khai thực hiện ứng dụng CNTT trong giảng dạy LLCT ở các trường đại học hiện nay... Mặt khác, trình độ, kỹ năng hiểu biết CNTT, sử dụng máy tính của đội ngũ giảng viên không đồng đều, còn rất khái lược, giản đơn, một số mới dừng lại ở mức độ “xoá mù” tin học. Việc ứng dụng CNTT còn đơn điệu, thiết kế soạn giảng các slide còn rối, thiếu hợp lý (quá nhiều chữ, hình ảnh chưa tiêu biểu phản ánh sát với nội dung chuyên đề và mang tính giáo dục thuyết phục cao, lựa chọn phông chữ, màu sắc, độ tương phản… và tình trạng lạm dụng hiệu ứng phần mền theo ý chí chủ quan còn khá phổ biến), mà chưa tập trung đi sâu khai thác đầy đủ những tiện ích của CNTT với tư cách là nhân tố “đột phá” mạnh mẽ trong PPDHTC. Trong khi đó, việc kết nối các kênh thông tin điện tử, thư viện điện tử và Internet vào thiết kế bài giảng góp phần nâng cao còn nhiều chất lượng bài giảng, gây hứng thú cho người học. Do đó, việc ứng dụng CNTT với đầy đủ ý nghĩa của nó, sẽ làm cho quá trình dạy và học hiệu quả hơn. Như vậy, có thể nhận thấy rằng trong số các công cụ hiện đại trợ giúp cho con người trong học tập, lao động và sinh hoạt hiện nay thì CNTT là một trong những công cụ hiện đại, tiên tiến và hữu hiệu nhất giúp chúng ta tìm kiếm, xử lý, truyền bá, tiếp thu thông tin một cách nhanh chóng và hiệu quả. Để biến nó trở thành công cụ giúp việc đắc lực cho hoạt động của con người nói chung và cho việc giảng dạy nói riêng thì đòi hỏi người sử dụng nó phải được trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết liên quan đến lĩnh vực này như máy vi tính, phần mềm chuyên dùng, mạng internet, website... Tuy nhiên, phải xác định rõ CNTT chỉ là công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học để nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy của giảng viên chứ bản thân nó không phải là phương pháp nên nếu lạm dụng nó, sử dụng nó không đúng mục đích, đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ phản tác dụng. Để nâng cao chất lượng giảng dạy các môn LLCT thông qua PPDHTC với sự hỗ trợ của CNTT một cách hiệu quả, thiết nghĩ cần phải tập trung vào một số giải pháp căn bản sau: Trước hết, mỗi giảng viên phải có phông kiến thức đủ rộng và đủ sâu. Theo nguyên tắc “Nội dung nào, phương pháp đó”, tức là muốn đổi mới phương pháp giảng dạy trước hết phải đổi mới, điều chỉnh về nội dung giảng dạy cho phù hợp. Vì thế, mỗi giảng viên phải tự mình ý thức việc tự học để không ngừng nâng cao hiểu biết, trau dồi về chuyên môn nghiệp vụ cho đủ “sâu”. Ngoài kiến thức chuyên môn của mình thì cũng phải trang bị cho mình một phông kiến thức đủ “rộng”, mà trước hết là phải nắm vững kiến thức của các bộ môn liên quan trong hệ thống các môn LLCT (Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối cách mạng của Đảng CSVN…) vì giữa chúng có quan hệ khăng khít, gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong mỗi bài giảng. Muốn áp dụng được PPDHTC với sự hỗ trợ của CNTT một cách hiệu quả thì trước hết giảng viên phải làm chủ được kiến thức chuyên môn, am hiểu lý luận và các kiến thức liên quan đến lĩnh vực KHXH&NV, đồng thời biết sử dụng thành thạo các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để phục vụ cho công tác giảng dạy. Thứ hai, quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc “gắn lý luận với thực tiễn”. Khi đã có kiến thức đủ rộng, giảng viên cần phải đầu tư chiều sâu cho chuyên ngành của mình giảng dạy. Giảng dạy các môn LLCT nhất thiết phải liên hệ với thực tiễn, gắn liền lý luận với thực tiễn. Nếu như trong giảng dạy lý thuyết việc lấy ví dụ minh họa quan trọng một (nó sẽ giúp cho người học có thể hiểu và vận dụng được kiến thức lý thuyết vào thực tiễn) thì trong giảng dạy LLCT việc lấy ví dụ minh họa hoặc chứng minh bằng thực tiễn sinh động quan trọng gấp nhiều lần vì kiến thức LLCT vốn rất cô đọng, khô khan, được khái quát từ thực tiễn. Chính vì vậy, muốn cho bài giảng sinh động giàu sức thuyết phục, giảng viên cần phải liên hệ với thực tiễn của thế giới, của đất nước, của ngành nghề, của đơn vị. Việc liên hệ này tuỳ thuộc vào khả năng của mỗi giảng viên, có thể giảng viên tự liên hệ trong bài giảng và chỉ cho học viên thấy rõ điều đó được thể hiện trong thực tế cuộc sống. Giảng viên có thể gợi mở, đàm thoại với học viên, dẫn ra những thực tiễn của đất nước, đơn vị và từ đó khái quát làm sáng tỏ về mặt lý luận. Một trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả đào tạo chưa cao là do phương pháp giảng dạy của giảng viên chưa chú trọng liên hệ với thực tiễn kinh tế - xã hội xung quanh. Các bộ môn LLCT có mặt trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội từ vấn đề nhỏ nhặt nhất trong sinh hoạt đời thường đến những vấn đề trọng đại của đất nước. Vì thế, một trong những vấn đề đổi mới giảng dạy LLCT nhất thiết phải chú trọng liên hệ với thực tiễn mới nâng cao được chất lượng, hiệu quả đào tạo. Thứ ba, chủ động, tích cực tìm tòi và mạnh dạn áp dụng phương pháp mới. Thực tế dạy học đã chứng minh rằng, không có một phương pháp dạy học nào tối ưu cho tất cả mọi đối tượng, vì dạy học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Khoa học ở chỗ giảng viên phải bảo đảm chương trình, nội dung, mục tiêu đào tạo… nghệ thuật là giảng viên phải tuỳ theo đối tượng, tình hình cụ thể của lớp học mà có cách thức giảng dạy đáp ứng yêu cầu, đạt chất lượng, hiệu quả cao. Vì thế, đổi mới giảng dạy phụ thuộc vào bản thân mỗi giảng viên chứ không ngồi chờ cấp trên nghĩ ra. Để có thể áp dụng được PPDHTC trong giảng dạy thì ngoài phương pháp thuyết giảng truyền thống thì mỗi giảng viên cần mạnh dạn tìm tòi, áp dụng những phương pháp mới như: tổ chức học tập theo nhóm, dạy học dựa trên vấn đề, dạy học bằng phương pháp sắm vai, seminar học viên (sinh viên), sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan, sử dụng phim tư liệu, giảng dạy thông qua thảo luận, giảng dạy thông qua tham quan thực tế, giảng dạy kết hợp với phương tiện đa truyền thông… để phát huy được tính tích cực, chủ động của người học, giúp học viên có được phương pháp, công cụ tốt nhất để có thể tự học qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập LLCT. Thứ tư, phải sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học hiện đại, khai thác tối đa tính ưu việt của CNTT để hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu và giảng dạy. Một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với giảng viên LLCT là phải sử dụng các phương tiện kỹ thuật trong nghiên cứu và giảng dạy. Các phương tiện đó bao gồm: máy vi tính, laptop, máy ghi âm, projector, video, radio, băng đĩa hình… Các phương tiện này nhằm bổ sung và làm phong phú thêm cho những nội dung của bài giảng; thay đổi cách học và phương pháp học, tạo sự hứng thú, kích thích tìm tòi, đi sâu nghiên cứu của học viên, làm cho học viên phát huy được tính chủ động, sáng tạo. Sử dụng các phương tiện kỹ thuật nhằm thay đổi phương pháp dạy chay, học chay; giúp học viên tiếp cận được khoa học kỹ thuật, gợi mở cho học viên gắn lý luận với thực tiễn, gắn học với hành. Hiện nay, sử dụng thành tạo vi tính là một trong những phương tiện hỗ trợ đắc lực, có hiệu quả cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên. Vi tính giúp cho giảng viên soạn bài giảng Powerpoint, giới thiệu giáo trình, tài liệu tham khảo, hình ảnh hay thước phim minh hoạ… Tuy nhiên, cũng phải chú ý tránh lạm dụng máy vi tính, phương tiện dạy học hiện đại trong giảng dạy, coi đó như sự đổi mới phương pháp dạy học. CNTT có rất nhiều tiện ích, lợi thế đối với PPDHTC của nền giáo dục hiện đại, do đó ứng dụng CNTT trong giảng dạy là tất yếu và rất cần thiết, nhưng không được tuyệt đối hóa và lạm dụng nó nếu thấy nó không tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học. Bởi suy đến cùng, CNTT không thể thay thế được hoàn toàn cho giảng viên trong mọi chuyên đề bài giảng. Để thực hiện được việc đó, thiết nghĩ cần phải triển khai một số nội dung liên quan sau: Một là, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của CNTT trong dạy học hiện đại từ đó nâng cao trình độ, kỹ năng CNTT tương xứng cho đội ngũ giảng viên. Quan tâm xây dựng đội ngũ giảng viên là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác GD&ĐT nói chung, cũng như trong giảng dạy LLCT nói riêng. Tiếp đó là việc bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm hỗ trợ soạn giảng cơ bản, cần thiết cho giảng viên, cần tập trung chủ yếu vào những kỹ năng, thao tác mà giảng viên thường sử dụng hàng ngày, như tra cứu, tìm kiếm thông tin, soạn giảng, cách sử dụng một số phương tiện như máy ghi âm, ghi hình, máy chiếu, máy quay phim, chụp ảnh, cách thiết kế các phần mềm cơ bản, thông dụng để soạn giảng, làm đề thi, kiểm tra, nhất là về trắc nghiệm… Song điều quan trọng hơn đó là giảng viên phải hướng dẫn và trang bị cho học viên có được những kỹ năng về CNTT phù hợp để họ có thể phát huy được tính tích cực, chủ động, tự giác trong học tập, tìm kiếm, khai thác, tiếp thu và xử lý các thông tin liên quan từ kho tàng tri thức khổng lồ của nhân loại để biến chúng thành kiến thức của mình. Cần phải đặt ra những tiêu chí yêu cầu cụ thể về kiến thức, kỹ năng CNTT trong quá trình tuyển chọn, thi nâng ngạch giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao cấp… để mỗi giảng viên phải tự học tập, trau dồi những kiến thức liên quan phục vụ cho công việc nghiên cứu và giảng dạy. Chống mọi biểu hiện thụ động, đối phó hay ngại học hỏi để ứng dụng CNTT trong thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy. Cần có cơ chế phù hợp khuyến khích đội ngũ giảng viên phát huy tinh thần tự học, tự nghiên cứu sáng tạo, tham gia viết phần mềm, thiết kế giáo án điện tử, bài giảng điện tử, tập hợp sưu tầm các kho tư liệu để chia sẻ, trao đổi thông tin, thống nhất phần mềm trong khai thác, ứng dụng soạn giảng. Hai là, bảo đảm tính sư phạm khi ứng dụng CNTT trong dạy học hiện đại. Việc chuẩn bị một bài giảng có ứng dụng CNTT cần đảm bảo không những tính nội dung khoa học mà còn phải đặt mạnh tiêu chí về tính sư phạm. Tính sư phạm ở đây bao gồm: sự phù hợp về mặt tâm sinh lí người học, tính thẩm mỹ của trang trình chiếu, sự thể hiện nhuần nhuyễn các nguyên tắc dạy học và các phương pháp dạy học. Tuy nhiên, không phải mọi chuyên đề bài giảng đều phải sử dụng máy tính, cho dù đã có đủ điều kiện về cơ sở vật chất cũng như các kĩ năng của giảng viên đủ điều kiện thích hợp cho công việc. Điều quan trọng là ngoài ý thức, khả năng, trình độ am hiểu CNTT, sử dụng máy tính, giảng viên còn phải biết lựa chọn đúng các chuyên đề bài giảng cần thiết và biết thiết kế một cách hợp lý thì sẽ tận dụng được tối đa tính ưu việt của máy tính cả về phương diện khoa học: cung cấp thông tin, gợi mở ý tưởng tìm kiếm sáng tạo, gây được sự quan tâm, hấp dẫn đối với người học, mà còn cho phép khả năng khai thác tối đa các tiện ích, lợi thế của CNTT trong giảng dạy, nhất là giảng dạy theo phương pháp nêu vấn đề. Đồng thời, cần khắc phục những biểu hiện chạy theo phong trào, lạm dụng máy tính trong giảng dạy làm cho người học bị phân tán sự chú ý, chẳng những không cung cấp được nhiều kiến thức, thông tin gì mới và quan trọng, mà còn gây ức chế cho người học... Ba là, tuân thủ quy trình thiết kế bài giảng điện tử với sự trợ giúp của CNTT. Để thực hiện có hiệu quả các chuyên đề bài giảng có ứng dụng CNTT đòi hỏi giảng viên khi thiết kế bài giảng điện tử cần chuẩn bị trước kịch bản, cần lưu ý về Font chữ, màu chữ (Xanh, đen trắng, vàng/đỏ) và hiệu ứng thích hợp (hiệu ứng đơn giản, nhẹ nhàng tránh gây mất tập trung vào nội dung bài giảng). Nội dung bài giảng điện tử cần thiết kế một cách cô đọng, súc tích nhất, các hình ảnh, các mô phỏng cần xác định rõ tính mục đích, tính giáo dục thuyết phục, tính sư phạm… phù hợp với chuyên đề (trong 1 slide không nên nhiều hình, nhiều chữ); các nội dung bài giảng chứa nhiều liên kết nhất là liên kết đến hệ thống câu hỏi (nêu vấn đề) để khắc phục những tình huống sư phạm phát sinh… và có thể đặt trong slide chủ. Tuyệt đối không được lạm dụng CNTT nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình dạy học và sự mở rộng, phát triển kiến thức của người học; khi sử dụng công nghệ mô phỏng nếu không phản ánh đúng nội dung, giá trị nghệ thuật và thực tế thì không nên sử dụng. Mặt khác, cần phải biết sử dụng và kết hợp các phương pháp dạy học khác một cách linh hoạt để làm phong phú, hấp dẫn nội dung chuyên đề bài giảng. Bốn là, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống trang thiết bị CNTT hiện đại, đồng bộ để đáp ứng nhu cầu giảng dạy LLCT theo PPDHTC. Phải có được hệ thống trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, phù hợp, đồng bộ để giúp giảng viên và sinh viên chủ động, tích cực trong nghiên cứu và học tập, cụ thể như: hệ thống giảng đường, phòng học chuyên dụng với PC, projector, mạng nội bộ… (phục vụ việc giảng dạy và thảo luận, làm việc nhóm của học viên); hệ thống phòng đọc thư viện, phòng truy cập mạng (phục vụ việc tự học, tìm kiếm và khai thác thông tin liên quan); website và hệ thống quản trị cơ sở dữ liệu CNTT của nhà trường (cung cấp thông tin chính thống liên quan đến các hoạt động của nhà trường, của các khoa về thời khóa biểu, kế hoạch dạy học, các tài liệu trong thư viện điện tử)... tất cả đều phải được xây dựng, quản lý và khai thác một cách đồng bộ và hiệu quả. Việc đầu tư là của nhà trường, của cơ sở đào tạo, nhưng việc khai thác và sử dụng cho hiệu quả lại là việc liên quan nhiều đến đội ngũ giảng viên và học viên. Chỉ khi nào có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận này thì mới hy vọng PPDHTC với sự hỗ trợ của CNTT phát huy được tính ưu việt của nó trong quá trình dạy học trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay. Tóm lại, đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề cấp bách đặt ra, là một trong những mục tiêu trọng tâm trong cải cách giáo dục ở nước ta hiện nay. Phát huy vai trò hỗ trợ CNTT trong dạy học đại học là một công việc lâu dài, khó khăn, phức tạp là trách nhiệm chung của mọi người, của các lực lượng liên quan trong hệ thống giáo dục, nhưng trong đó và trước hết đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng vượt bậc của đội ngũ giảng viên và điều kiện cơ sở vật chất, tiếp tục hoàn thiện và hiện đại hoá thiết bị, công nghệ dạy học, nhất là hoàn thiện hạ tầng CNTT để có thể khai thác đầy đủ và tốt nhất. Đây cũng là nhân tố cơ bản, quyết định đến chất lượng dạy và học theo PPDHTC, đồng thời góp phần quan trọng thực hiện có hiệu quả một trong số những nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo đã đặt ra./. Vũ Văn Tuấn Khoa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – Học viện Kỹ thuật Quân sự ------------ [1] Ban Tuyên giáo TW - Tổng cục dạy nghề - Viện nghiên cứu phát triển phương Đông: Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2012, Tr.15-16.

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất