Thời gian gần đây, trước thực trạng ngôn ngữ (cụ thể là tiếng Việt) đang có nhiều biểu hiện lộn xộn, lệch lạc, làm ảnh hưởng tới sự trong sáng của tiếng Việt, dư luận đã có nhiều ý kiến đề nghị ban hành Luật Tiếng Việt để có căn cứ định hướng, uốn nắn và giám sát các hoạt động ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp (nói và viết) sao cho có quy củ, nền nếp, khẳng định vị trí và vai trò của tiếng Việt trong lĩnh vực đối nội và đối ngoại.
Tuy nhiên, cần phải xem xét đề xuất xây dựng Luật Ngôn ngữ chứ không phải Luật Tiếng Việt. Và nếu có, thì việc xây dựng Luật Tiếng Việt phải tiến hành sau khi có Luật Ngôn ngữ.
Có thể nói, cảnh huống ngôn ngữ, thực trạng ngôn ngữ và nhu cầu hiện tại cho thấy việc xây dựng và ban hành Luật Ngôn ngữ là cần thiết.
Thực tế, cách đây khoảng 2 năm (2019), từ đề xuất của Đài Tiếng nói Việt Nam, Ủy ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội (khóa XIV) do đồng chí Phan Thanh Bình Chủ nhiệm Ủy ban, chủ trì đã triệu tập các cơ quan hữu quan như Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học, một số khoa ngữ văn, khoa ngôn ngữ của các trường đại học, một số cơ quan truyền thông tiêu biểu, một số chuyên gia... để bàn, lên kế hoạch cho việc đề xuất, xây dựng Luật Ngôn ngữ để trình Quốc hội khóa XIV. Tiếc là thời gian còn ngắn để tiến hành các bước thủ tục nên việc triển khai chưa thực hiện được. Tuy nhiên, các cơ quan chuyên môn ngôn ngữ học cũng đã xúc tiến công việc chuẩn bị.
Xây dựng Luật Ngôn ngữ là xác lập một chủ quyền dân tộc trong lĩnh vực tiếng nói chữ viết của một quốc gia.
Nếu như một đất nước đơn ngữ, ví dụ như Triều Tiên duy nhất có một dân tộc, một tiếng nói, một chữ viết thì điều này đơn giản. Còn hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có không ít hơn 1 dân tộc. Ấn Độ, ngoài tiếng Anh còn 34 tiếng các dân tộc khác. Nước Nga, ngoài tiếng Nga có 34 tiếng dân tộc khác. Indonesia có 11 dân tộc. Papua New Guinea, ngoài 3 ngôn ngữ sử dụng chính thức là tiếng Anh, tiếng Tok Pisin, tiếng Motu có gần 860 ngôn ngữ được sử dụng.
Về nguyên tắc, mỗi dân tộc (mà đại diện là tiếng nói) là hoàn toàn bình đẳng, không phân biệt ngôn ngữ đó thuộc dân tộc đa số hay thiểu số. Vì vậy, Luật Ngôn ngữ là bộ luật chung cho mọi ngôn ngữ đang có trong quốc gia đó. Tất nhiên, sẽ có một ngôn ngữ chính thức được chọn là ngôn ngữ quốc gia (chẳng hạn như tiếng Việt), thì sẽ có một văn bản dưới luật, hướng dẫn riêng về những quy định và quy cách sử dụng.
Nhiều người cho rằng, phải có Luật Ngôn ngữ để có căn cứ bắt lỗi ai đó trong cộng đồng sử dụng chưa đúng, chưa chuẩn khi nói năng. Chẳng hạn vấn đề liên quan tới từ ngữ, ngữ âm, chính tả, ngữ pháp..., họ yêu cầu phải có một "cẩm nang" ngôn từ để từ đó đối chiếu với hiện thực nói và viết tiếng Việt. Ai nói sai (mắc lỗi) sẽ bị phạt (như Công an giao thông phạt người đi đường phạm luật) thì mới đủ sức răn đe những người thiếu trách nhiệm, làm vẩn đục sự trong sáng của tiếng Việt, tránh được hiện tượng "mạnh ai người ấy nói". Ngay cả trên báo chí hiện nay, cũng đang tồn tại cảnh "đèn nhà ai nhà ấy rạng". Chưa có cơ quan nào đứng ra làm "trọng tài" cho công việc này cả.
Thực tế, nội dung Luật Ngôn ngữ rộng, đa dạng và phức tạp hơn nhiều. Đó là vấn đề liên quan tới chính sách ngôn ngữ và các quyền cơ bản liên quan tới ngôn ngữ nói chung.
Việt Nam có 54 dân tộc. Ít nhất, sẽ có 54 ngôn ngữ (tiếng nói) (vì có ngôn ngữ tồn tại vài thứ tiếng riêng biệt, khác nhau). Có mấy vấn đề căn bản mà Luật Ngôn ngữ nước ta phải quan tâm, đó là:
Thứ nhất, phải thể hiện sự tôn trọng và quyền bình đẳng đối với mọi ngôn ngữ trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, làm rõ hiện nay Việt Nam có bao nhiêu ngôn ngữ, tên gọi chính xác là gì. Ví dụ, chọn biến thể nào trong các biến thể: Mèo, H'Mông, Hơ Mông, Mông; Khmer hay Khơ Me; Tày - Nùng hay Tày, Nùng...
Nhà nước có trách nhiệm bảo tồn, phát triển sự đa dạng ngôn ngữ các dân tộc. Luật cũng quy định trong trường hợp nào được sử dụng ngôn ngữ dân tộc.
Thứ hai, trong một quốc gia nhiều dân tộc, nhiều ngôn ngữ, phải lựa chọn và khẳng định, ngôn ngữ nào là Ngôn ngữ Quốc gia (National Language), tức "quốc ngữ" (bao gồm tiếng nói và chữ viết), được sử dụng chính thức trong giao tiếp và trong mọi văn bản hành chính nhà nước, trong hệ thống giáo dục, trong sách vở, báo chí - truyền thông - quảng cáo, trong các văn bản khoa học, văn học nghệ thuật, v.v.
Thứ ba, Tiếng Việt hiện tại là Ngôn ngữ chính thức (Official Language), được sử dụng trong các văn bản hành chính, giáo dục, lực lượng vũ trang, truyền thông, văn học... Tuy nhiên, điều khoản này chưa được "luật hoá" thành Ngôn ngữ Quốc gia vì chưa có Luật Ngôn ngữ.
Thứ tư, phải định chế rõ trách nhiệm và quyền lợi của mọi công dân trong việc thực thi Luật Ngôn ngữ. Ví dụ, một người thuộc dân tộc thiểu số (người Bahnar) có quyền nói ngôn ngữ dân tộc họ, nhưng khi đi học hoặc giao tiếp cộng đồng phải sử dụng ngôn ngữ chính thức là tiếng Việt, văn bản các cơ quan công quyền gửi tới đương sự cũng phải là tiếng Việt.
Thứ năm, phải quy định, luật hoá và có các nội dung cần thực hiện các vấn đề liên quan tới ngôn ngữ quốc gia (tiếng Việt). Đó là: bảng chữ cái tiếng Việt chuẩn, hệ thống từ vựng chuẩn, chính tả (cách viết chuẩn giữa chính âm và chính tả, dựa trên âm và giọng chuẩn mực), cách viết tên riêng (nhân danh, địa danh...), cách viết tên nước ngoài, cách viết tắt, v.v.
Thứ sáu, phải luật hoá và đưa vào chế tài thực hiện Luật Ngôn ngữ đối với mọi công dân, cả người nước ngoài đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam). Những chế tài này liên quan tới mức độ phạm lỗi và mức độ xử phạt, những cơ quan nào có chức trách và quyền hạn bắt lỗi và phạt lỗi.
Tất nhiên, có vấn đề được đưa vào nội dung văn bản luật, có những vấn đề (cụ thể, chi tiết) sẽ đưa vào văn bản dưới luật. Điều này sẽ được xem xét và thực hiện sao cho phù hợp trong quá trình xây dựng Luật Ngôn ngữ.
Hiện nay, các nhà ngôn ngữ đang cân nhắc để đề xuất một tên gọi chính thức. Tên gọi đó có thể là Luật Ngôn ngữ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
PGS. TS. Phạm Văn Tình
Tổng Thư kí Hội Ngôn ngữ học Việt Nam