Thứ Tư, 25/9/2024
Kinh tế
Thứ Sáu, 27/6/2014 14:31'(GMT+7)

Doanh nghiệp FDI tăng trưởng nhanh về số lượng, quy mô, kết quả sản xuất kinh doanh

Tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên phạm vi toàn quốc thời điểm 31-12-2013 là 9093 doanh nghiệp, gấp 6 lần năm 2000. Bình quân giai đoạn 2000-2013 mỗi năm tăng xấp xỉ 16%. Số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trong khu vực công nghiệp và xây dựng hiện chiếm tỷ lệ cao lên tới 73%, trong đó ngành công nghiệp chiếm 66,4%. Tiếp đến là khu vực dịch vụ là 25,7%. Trong khi đó, số doanh nghiệp FDI hoạt động trong khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản chỉ có 123 doanh nghiệp, chiếm 1,4%.

Lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI tại thời điểm cuối năm 2013 là trên 3,2 triệu người, gấp 8 lần trong nhăm 2000, trong đó doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 92% (năm 2000 là 70,2%), doanh nghiệp liên doanh với ngoài chiếm 8%. Bình quân mỗi năm thu hút 216,5 nghìn lao động, góp phần giải quyết việc làm đáng kể cho nền kinh tế.

Tính đến cuối năm 2013, tổng số vốn của khu vực doanh nghiệp FDI sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh là 3411 nghìn tỷ, gấp 14,2 lần năm 2000. Bình quân giai đoạn 2000 – 2013 tăng 22,4%/năm.

Doanh thu thuần năm 2013 của  khu vực doanh nghiệp FDI là 3138 nghìn tỷ đồng, gấp 19,4 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 tăng 25,3%/năm. Đóng góp vào ngân sách nhà nước của khu vực này năm 2013 là 214,3 nghìn tỷ đồng, gấp 9 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 tăng 18,1%.

Tuy nhiên, cũng thẳng thắn thừa nhận doanh nghiệp FDI tăng nhanh về quy mô và kết quả sản xuất kinh doanh nhưng tỷ trọng chiếm trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp giai đoạn 2000-2013 thay đổi không nhiều. Doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào khu vực công nghiệp và xây dựng.

Mặc dù khu vực doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng không cao trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp về các chỉ tiêu như doanh nghiệp, lao động, vốn và doanh thu, nhưng khu vực này lại chiếm tỷ trọng cao về lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước. Năm 2013, doanh nghiệp FDI chiếm tới 45,4% tổng lợi nhuận và 30,5% tổng số nộp ngân sách nahfn ước của toàn bộ khu vực doanh nghiệp.

Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, khu vực FDI thời gian qua vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như:

Thứ nhất, các doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào các hoạt động gia công, lắp ráp, nguyên vật liệu chủ yếu nhập ngoại nên giá trị gia tăng chưa cao. Tuy Việt Nam là một nước có thế mạnh về nông nghiệp nhưng tỷ trọng vốn của các doanh nghiệp FDI vào sản xuất kinh doanh ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản rất thấp, có xu hướng giảm dần, năm 2000 chiếm 0,6% tổng vốn FDI giảm xuống còn 0,3% năm 2013.

Thứ hai, kỳ vọng của Việt Nam là các doanh nghiệp FDI sẽ góp phần tích cực nhất vào việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng cho các nhà quản lý doanh nghiệp của Việt Nam. Đồng thời với kỳ vọng phát triển nhanh chóng với các ngành công nghệ, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, giúp đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, các kỳ vọng trên hầu như còn khá lâu mới đạt mục tiêu.  Các doanh nghiệp FDI hiện nay chủ yếu tập trung vào hoạt động ở các ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều lao động phổ thông có chi phí nhân công thấp. Mặc dù đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được gần 30 năm, nhưng chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo, khai thác dầu khí, gia công, lắp ráp với các trang thiết bị, dây chuyền công nghệ trung bình hoặc đã lạc hậu.

Thứ ba, Việt Nam đã và đang áp dụng các quy định về môi trường dành cho các nước đã và đang phát triển. Tuy nhiên, vẫn còn không ít các doanh nghiệp FDI không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các cam kết khi đăng ký kinh doanh về đầu tư trang thiết bị và xử lý chất thải, bảo vệ môi trường.

Tổng cục Thống kê cũng nhận định, trong 30 năm đổi mới, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có những đóng góp quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế nước và khu vực này vẫn tiếp tục có vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động; nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục rà soát môi trường đầu tư, tạo yếu tố minh bạch và ổn định cho các nhà đầu tư nước ngoài để Việt Nam tiếp tục là điểm đến của các nhà đầu tư.

Bảo Long


Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất