Chủ Nhật, 29/9/2024
Giáo dục
Thứ Ba, 11/3/2014 20:9'(GMT+7)

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI


1.Yêu cầu và thời cơ, thách thức

Đất nước đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Sự nghiệp trọng đại, vẻ vang đó đặt ra những yêu cầu to lớn đối với giáo dục đại học.
Thực tiễn đòi hỏi giáo dục đại học phải góp phần trực tiếp, hiệu quả vào quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Những năm tới, giáo dục đại học cần tích cực tham gia vào quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sức mạnh tổng hợp của đất nước; góp phần phát triển văn hóa, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Muốn hoàn thành được những nhiệm vụ nặng nề đó, giáo dục đại học không có con đường nào khác là phải vươn lên mạnh mẽ, phải đổi mới căn bản, toàn diện.

Ở thời điểm hiện tại và trên chặng đường sắp tới, giáo dục đại học nước ta có nhiều thuận lợi và thời cơ phát triển. Nhìn trên bình diện toàn cầu, những thập niên đầu của thế kỷ XXI, đúng như nhận định của UNESCO, phát triển hệ thống giáo dục sẽ là một xu thế chung của các quốc gia. Trên thực tế, ở hầu khắp các nước đang diễn ra làn sóng cải cách và đổi mới giáo dục, đào tạo nói chung, giáo dục đại học nói riêng. Càng ngày, vai trò, vị trí của giáo dục đại học càng được nhận thức sáng tỏ, đầy đủ hơn. Viện trưởng Viện Đại học Rice, Giáo sư Mallcolin Gills đã có nhận xét rất chí lý: “Thời đại ngày nay, hơn là bất cứ lúc nào trong lịch sử nhân loại, sự giàu có hay nghèo nàn của các quốc gia tùy thuộc vào chất lượng giáo dục đại học. Những nước mà có một tài nguyên nhân lực lớn về kỹ năng và sức học hỏi cao thì có thể nhìn về một tương lai dài đầy những thành quả kinh tế chưa từng có. Nhưng trong hàng chục năm tới những nước có trình độ giáo dục thấp sẽ đối diện với viễn cảnh tuyệt vọng âm thầm” (1).  Trào lưu cải cách giáo dục đại học; xu hướng hình thành những giá trị giáo dục khu vực, toàn cầu, xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế… là môi trường buộc và khích lệ giáo dục đại học Việt Nam đổi mới, là cơ hội tốt để chúng ta có thể tiếp cận, tiếp thu chọn lọc những kinh nghiệm quý từ thế giới để không ngừng tự hoàn thiện, vượt lên.
Ở trong nước, những thành quả, kinh nghiệm phát triển giáo dục đại học - cả kinh nghiệm thành công và chưa thành công, mấy chục năm qua  gắn với thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần ba mươi năm đổi mới đất nước, trực tiếp là gần hai mươi năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo là những tiền đề vật chất, tinh thần quan trọng để chúng ta kế thừa, phát triển. Sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, của Mặt trận Tổ quốc, của toàn xã hội, của từng gia đình đối với sự nghiệp giáo dục; truyền thống hiếu học, phẩm chất thông minh, năng lực trí tuệ của người Việt Nam, thế hệ trẻ Việt Nam là những thuận lợi lớn, là bệ phóng vững chắc để giáo dục đại học nước ta có thể cất cánh trong thế kỷ mới.

Tuy nhiên, cũng phải thấy hết những khó khăn, thách thức gay gắt đang và sẽ tác động nhiều mặt đến quá trình phát triển giáo dục đại học Việt Nam để quyết tâm khắc phục, vượt qua.

Trong thế giới toàn cầu hóa, cùng với xu thế hợp tác, phát triển là quá trình cạnh tranh ngày càng quyết liệt giữa các quốc gia, đặc biệt là cạnh tranh về khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao - cũng có nghĩa là cạnh tranh về giáo dục đại học. Trong cuộc chạy đua tăng tốc này, giáo dục đại học Việt Nam còn ở điểm xuất phát thấp và chưa có nhiều lợi thế, có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với giáo dục đại học khu vực, thế giới (2).

Mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của đại học nước ta tuy đã có những bước đổi mới, song dấu ấn của tư duy, cách nghĩ, cách làm, thói quen thời bao cấp vẫn là một trở lực. Mặc dù Đảng, Nhà nước, xã hội và gia đình đã dành sự quan tâm đáng kể trong đầu tư cho giáo dục đại học, song do tiềm lực kinh tế đất nước có hạn, nguồn lực tài chính quốc gia, khả năng đầu tư của cộng đồng xã hội và khả năng đóng góp của phần đông các gia đình chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặt trái của cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế đang tác động đến nhận thức, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận sinh viên và một số giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, làm phát sinh những tiêu cực, tệ nạn gây bức xúc xã hội, cản trở bước tiến của giáo dục đại học.

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc những thuận lợi, khó khăn, thời cơ, thách thức; kiên trì kế thừa, phát huy những thành tựu, kinh nghiệm tốt; tận dụng những cơ hội phát triển; kiên quyết khắc phục những nhận thức, việc làm chưa đúng, đẩy lùi những tiêu cực và tệ nạn; tiếp thu có chọn lọc những thành quả và kinh nghiệm phù hợp của giáo dục đại học quốc tế để phát triển nhanh, bền vững.

2. Những chuyển đổi có ý nghĩa chiến lược

Tháng 11 năm 2013, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết đánh dấu bước phát triển mới về tư duy chiến lược của Đảng đối với sự nghiệp  phát triển giáo dục và đào tạo nước nhà. Bảy quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và chín nhóm nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Nghị quyết có giá trị định hướng tư tưởng, hành động rất sâu sắc, thiết thực đối với toàn ngành giáo dục, đào tạo, nhất là đối với quá trình đổi mới giáo dục đại học. Quán triệt tinh thần Nghị quyết, soi vào thực tiễn giáo dục đại học nước ta hiện nay trên hệ quy chiếu với giáo dục đại học khu vực, thế giới có thể thấy sáng tỏ hơn nhiều vấn đề cốt lõi của đổi mới và phát triển. Nổi bật và xuyên suốt là định hướng về những bước chuyển có ý nghĩa chiến lược của giáo dục đại học mà chúng ta phải ra sức phấn đấu, đi trước trong việc thực hiện mục tiêu đến năm 2030 nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực (3).

Một là, bước chuyển từ quá trình giáo dục chủ yếu truyền thụ kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học

- Về phát triển năng lực của người học

Bước vào thế kỷ XXI, các nhà giáo dục học quốc tế tán đồng cao với quan niệm của UNESCO: Việc chuyển giao trách nhiệm nắm bắt tri thức từ người giảng sang người học sẽ là thay đổi chính trong hệ thống giáo dục (4). Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học, công nghệ vừa là sản phẩm trí tuệ của nhân loại, vừa nâng cao khả năng sáng tạo của con người. Khối lượng tri thức được tạo ra ngày càng khổng lồ, hết sức đa dạng, luôn luôn mới mẻ. Trước thực tế đó, con người buộc phải thay đổi phương thức nắm bắt tri thức, chuyển mạnh từ nắm bắt những tri thức cụ thể sang trau dồi phương pháp tiếp cận, sàng lọc, vận dụng, sáng tạo tri thức.

Giáo dục đại học Việt Nam, nói riêng, giáo dục đại học châu Á nói chung, có nét giống nhau là thiên về truyền thụ kiến thức. Nói về đặc điểm này, Hiệu trưởng Đại học Yale, Mỹ, Giáo sư  Richard C. Levin đã đưa ra một nhận xét sắc sảo trong bài viết Sự trỗi dậy của các đại học châu Á: Phương pháp giảng dạy tập trung vào việc làm chủ nội dung, chứ không phải phát triển năng lực tư duy độc lập và tinh thần phản biện. Cách tiếp cận của châu Á truyền thống đối đối với chương trình học và phương pháp giảng dạy có thể rất thích hợp cho việc đào tạo những kỹ sư và viên chức chính phủ hạng trung, nhưng có lẽ không mấy thích hợp để đào tạo giới tinh hoa nhằm đổi mới công nghệ và lãnh đạo (5).

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới, song cho đến nay, về cơ bản giáo dục đại học nước ta vẫn chưa khắc phục tốt hạn chế được nêu trong Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII về Định hướng chiến lược phát  triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, cách đây đã hơn 17 năm. Sinh viên do chúng ta đào tạo ra vẫn còn yếu về trình độ kiến thức, kỹ năng thực hành, phương pháp tư duy khoa học và trình độ ngoại ngữ; khả năng vận dụng kiến thức vào sản xuất, đời sống, thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của ngành nghề, công nghệ… vẫn còn nhiều bất cập (6). Sau khi tốt nghiệp, tỷ lệ sinh viên chưa đáp ứng được yêu cầu công việc hoặc phải đào tạo lại còn chiếm tỷ lệ cao.

Nhận thức sâu sắc những yếu kém đã tồn tại từ lâu, chậm được khắc phục, Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI đã định hướng rõ,  giáo dục đại học phải chú trọng phát triển năng lực tự học, tự làm giàu kiến thức, sáng tạo của người học; phải đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực; phải khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc, tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật kiến thức, đổi mới kiến thức, phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng vận dụng kiến thức.

Thực hiện những định hướng nêu trên sẽ tạo bước chuyển có ý nghĩa cách mạng trong quan hệ giữa người dạy và người học, chuyển người thầy từ vai trò truyền thụ những tri thức cụ thể thành người chuyển  giao bí quyết nắm bắt, vận dụng tri thức; đặt người học ở vị trí chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục, chủ động, năng động biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo một cách thực chất. Đồng thời, đây cũng là quá trình tạo ra sự biến đổi về chất trong giáo dục đại học, nâng giáo dục ở tầm chuyển giao - tiếp nhận tri thức lên tầm không ngừng làm giàu tri thức, sáng tạo tri thức.

- Về giáo dục, bồi đắp phẩm chất, nhân cách của người học

Bốn trụ cột mà UNESCO xác định như là cơ sở của cải cách giáo dục trong thế kỷ XXI: “Học để hiểu biết; học để làm việc; học để chung sống; học để tự khẳng định” đã trở thành sự gợi mở đầy sức thuyết phục về mục tiêu giáo dục phẩm chất, năng lực của người học. Hai mệnh đề đầu là sự tiếp nối tư duy đã được khẳng định trước đây, song hai mệnh đề sau thì thật là mới mẻ và sâu sắc. Học là học kỹ năng sống để có thể chung sống thân thiện với thế giới tự nhiên, chung sống hài hòa với cộng đồng; học là để tiếp nhận các giá trị và tự sáng tạo những giá trị của chính mình, của riêng mình, đóng góp vào giá trị chung của cộng đồng. Trong xã hội hiện đại, giáo dục, học vấn, văn hóa là ba bộ phận của một quá trình thống nhất - sự phát triển về mặt tinh thần và nhân văn của cá nhân và xã hội; là các yếu tố không tách rời của sự phát triển xã hội một cách văn minh, đồng thời, là nội dung, tiền đề và kết quả của phát triển (7). Trường đại học chính là nơi hội đủ ba nhân tố giáo dục - học vấn - văn hóa, do vậy phải trở thành trung tâm bồi đắp đời sống tinh thần và chủ nghĩa nhân văn của người học, phải tạo hiệu ứng lan tỏa văn hóa trong xã hội.

Từ xa xưa, trong nền giáo dục truyền thống, ông cha ta đã nêu một triết lý dung dị mà vô cùng sâu sắc: Học ăn, học nói, học gói, học mở - tức là học kỹ năng sống, học để làm người. Đến thời đại cách mạng, Bác Hồ nâng tầm giáo dục thành sự nghiệp trồng người với thiên chức dạy để người học có tri thức làm việc, làm người, làm cán bộ cách mạng. Nền giáo dục đại học cách mạng của nước ta đã giương cao tôn chỉ cao quý đó. Tuy nhiên, bước vào cơ chế thị trường, do chậm đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo; do không đánh giá hết tác động của mặt trái kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, thiếu những biện pháp tích cực, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi những tiêu cực, tệ nạn xâm nhập vào học đường, môi trường giáo dục đại học đã bị ô nhiễm. Giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống có phần bị xem nhẹ; xuất hiện bệnh hình thức, hiếu danh, chạy theo bằng cấp và sự sa sút phẩm chất, nhân cách trong một bộ phận sinh viên, giảng viên, cán bộ quản lý.

Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI đã nêu định hướng điều chỉnh, khắc phục chiều hướng lệch lạc đó, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc giáo dục nhân cách, đạo đức người học. Nghị quyết nhấn mạnh, phải đặt dạy người lên trên hết, trước hết, rồi mới đến dạy chữ, dạy nghề; phải chú trọng giáo dục con người phát triển toàn diện, hài hòa đức, trí, thể, mỹ, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt, làm việc hiệu quả. Để thực hiện bước chuyển quan trọng này, phải phấn đấu xây dựng môi trường đại học thật sự dân chủ, ở đó con người được tôn trọng, được thể hiện và hoàn thiện các giá trị cá nhân để định hình, phát triển nhân cách; phải xây dựng một không gian văn hóa, nơi nuôi dưỡng, bảo vệ sự trung thực, và những giá trị đích thực, nơi ươm trồng và lan tỏa quan hệ trong sáng, lành mạnh. Đồng thời, phải đưa vào nội dung, chương trình dạy - học những giá trị cao đẹp của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa của văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Giáo dục phẩm chất, nhân cách người học phải được đặt thành nhiệm vụ thường xuyên quan trọng của tổ chức đảng, bộ máy quản lý, các đoàn thể trong nhà trường, nhất là của đoàn thanh niên, hội sinh viên trên cơ sở nhận thức đúng, tôn trọng, quan tâm, chăm lo thật sự đối với người học - chủ thể trung tâm của giáo dục đại học.

Hai là, bước chuyển từ phát triển chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng, hiệu quả với số lượng hợp lý

Ở các nước phát triển, trên nền mặt bằng dân trí khá cao, để đáp ứng nhu cầu thường xuyên, đa dạng, ngày càng sâu rộng của người học trong một xã hội học tập, giáo dục đại học có xu hướng đại chúng hóa, thực hiện phân tầng mạnh, hình thành nhiều loại hình cơ sở đào tạo với mục tiêu, nội dung, chương trình, thời lượng rất đa dạng, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi đối tượng. Đây là xu hướng khách quan, tiến bộ mà giáo dục đại học các nước đều hướng tới.
Cách đây 17 năm, trong điều kiện mạng lưới giáo dục nước ta đang trong quá trình hình thành, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của người học, Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII định hướng phát triển: coi trọng cả ba mặt quy mô - nâng cao chất lượng - phát huy hiệu quả; phát triển quy mô, số lượng được đặt ở vị trí ưu tiên. Theo tinh thần đó, gần 20 năm qua, nhất là những năm gần đây, mạng lưới giáo dục đại học không ngừng được mở rộng; số lượng các trường đại học tăng lên rất nhanh - đến cuối năm 2012, theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước đã có 204 trường đại học, vượt xa những năm trước đó. Có thể ghi nhận sự nỗ lực và cố gắng đáng trân trọng từ sự phát triển mạnh mẽ này, song lại phải thấy một sự thật không vui là, trong điều kiện đội ngũ giảng viên đại học còn có hạn, cơ sở vật chất bảo đảm cho dạy và học còn thiếu thốn, phổ cập trung học phổ thông còn đang trong quá trình phấn đấu, trình độ phát triển kinh tế đất nước còn thấp, sự phát triển nóng về số lượng các trường đại học và quy mô tuyển sinh đã không tương thích với việc nâng cao chất lượng đào tạo và góp phần làm trầm trọng hơn tình trạng bất hợp lý về cơ cấu nguồn nhân lực qua đào tạo. Chất lượng, hiệu quả giáo dục đại học có chiều hướng giảm sút và được đánh giá là khâu yếu trong chất lượng, hiệu quả của giáo dục, đào tạo nước ta nói chung.

Để khắc phục tình trạng này, Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI đã xác định, phải chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng; giáo dục đại học phải hướng vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài (8). Bước chuyển này đòi hỏi phải rà soát, sắp xếp, phân tầng mạng lưới giáo dục đại học hợp lý; kết gắn chặt chẽ kế hoạch đào tạo của các cơ sở đại học với quy hoạch nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu, điều kiện của từng ngành, từng địa bàn; khắc phục tình trạng mất cân đối giữa đào tạo đại học với đào tạo nghề, bất hợp lý giữa các ngành đào tạo bậc đại học dẫn tới tình trạng nguồn nhân lực vừa thừa vừa thiếu.

Vấn đề quan trọng hơn là phải phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đại học; lấy việc phục vụ trực tiếp, thiết thực quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, tái cơ cấu, nâng cao giá trị, tăng thêm sức cạnh tranh và phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh… làm thước đo chủ yếu xác định giá trị sáng tạo của đại học. Sản phẩm của giáo dục đại học, trước hết là sinh viên tốt nghiệp ra trường, phải được xã hội thừa nhận về phẩm chất, năng lực. Lấy sự chấp nhận của thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín, chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo và là căn cứ để định hướng phát triển ngành nghề, quy mô, số lượng đào tạo (9). Muốn vậy, các cơ sở giáo dục đại học phải rà soát, đổi mới căn bản, toàn diện quy trình, chương trình, nội dung, phương pháp, phương thức đào tạo theo đúng phương châm học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học công nghệ, phù hợp với quy luật khách quan của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu hội nhập quốc tế. Từng cơ sở giáo dục đại học phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo tài năng, đào tạo chất lượng cao và đào tạo đại trà căn cứ vào mục tiêu, điều kiện, năng lực thực tế.

Ba là, bước chuyển từ hệ thống giáo dục còn khép kín, cứng nhắc, biệt lập sang hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, liên thông

Hình thành, phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường ra đời sớm và không ngừng hoàn thiện, giáo dục đại học ở phần lớn các nước tiên tiến được thiết kế thành hệ thống mở, mềm dẻo, có tính liên kết cao, đủ sức thích ứng với thị trường luôn biến động, thay đổi. Phương thức đào tạo theo tín chỉ được thực hiện trong hệ thống giáo dục đại học uyển chuyển đó tạo điều kiện để người học có thể học tập suốt đời, có khả năng trang bị những tri thức phù hợp mỗi khi buộc phải hoặc mong muốn chuyển đổi nghề nghiệp, công việc.
Nền kinh tế thị trường nước ta đang trong quá trình hình thành; thị trường lao động vẫn còn sơ khai, nhu cầu việc làm còn rất lớn, người lao động chưa có điều kiện và nhu cầu thay đổi công việc. Những yếu tố khách quan đó cùng với dấu ấn tư duy, phương thức quản lý, điều hành giáo dục theo kiểu hành chính đã tồn tại quá lâu là những nguyên nhân chính khiến cho hệ thống giáo dục đại học của chúng ta (dù đã từng qua một số năm thử nghiệm không thành công mô hình liên thông vào đầu những năm 1990), cho đến hiện nay, về cơ bản vẫn là hệ thống khép kín, khô cứng, biệt lập. Bước vào thời kỳ mới, khi kinh tế thị trường ngày càng phát triển theo chiều sâu, quá trình hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, hệ thống giáo dục đại học như thế không còn thích hợp nữa, không đủ sức đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao, ngày càng đa dạng của thực tiễn.

Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI đã nêu mục tiêu xây dựng nền giáo dục mở với năm đặc trưng cơ bản: (1) Thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; (2) Có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; (3) Đảm bảo những điều kiện nâng cao chất lượng; (4) Chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế; (5) Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.

Mục tiêu trên là định hướng chung xây dựng nền giáo dục, đào tạo nước nhà trong thời kỳ mới. Đây cũng là định hướng sát hợp với giáo dục đại học. Trong quá trình thực hiện mục tiêu này, giáo dục đại học phải giải quyết hiệu quả ba vấn đề mấu chốt:

Thứ nhất, từng bước khắc phục tình trạng khép kín của cả hệ thống, của từng cơ sở đào tạo, hình thành cơ chế mở trong từng trường, trong toàn hệ thống; mở giữa hệ thống giáo dục đại học với đời sống xã hội, với cộng đồng giáo dục quốc tế.

Thứ hai, mềm hóa, linh hoạt hóa mô hình tổ chức và phương thức vận hành giáo dục đại học, thích ứng với sự vận động của cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế.

Thứ ba, khẩn trương xóa bỏ trạng thái chia cắt, biệt lập về chương trình, nội dung đào tạo trong từng trường, giữa các trường trên từng lĩnh vực, trên từng địa bàn và trong toàn hệ thống, giải quyết hài hòa giữa trang bị kiến thức chuyên sâu với kiến thức liên ngành, tạo sự liên thông, liên kết giữa các bậc học, giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo, giữa đào tạo trong nước và đào tạo quốc tế…

3. Sức mạnh đổi mới bắt đầu từ tự đổi mới

Ba bước chuyển có ý nghĩa chiến lược nêu trên, nói thì có vẻ dễ dàng, nhưng thực hiện cho được là cả một quá  trình phấn đấu gian khổ, đòi hỏi sự nỗ lực cao độ của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị, của ngành giáo dục, đào tạo, của cộng đồng xã hội, của từng gia đình, trực tiếp là sự phấn đấu của các cơ sở đào tạo, của người dạy, người học.

Quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học, cốt lõi là thực hiện ba bước chuyển có ý nghĩa chiến lược, trước hết đòi hỏi các trường đại học, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải quyết tâm, quyết liệt đổi mới cách nghĩ, cách làm, phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm, chuyển mạnh từ quản lý hành chính sang quản trị khoa học, nhất là quản trị đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản trị nhân lực và tài chính.

Sự chuyển đổi có ý nghĩa cách mạng của giáo dục đại học đòi hỏi và tạo điều kiện để người thầy tự vượt lên chính mình, tự hoàn thiện tài năng và nhân cách, thật sự là tấm gương sáng và là người dẫn dắt thế hệ trẻ học đường vững bước vào đời, vào con đường học tập, sáng tạo suốt đời.

Đổi mới giáo dục đại học, thực hiện những bước chuyển căn bản và toàn diện tạo cơ hội thuận lợi và cũng đòi hỏi nghiêm ngặt sự rèn luyện, phấn đấu cao độ của các thế hệ sinh viên, học viên, đặc biệt là ý thức làm chủ và thái độ trách nhiệm với chính mình, với gia đình, cộng đồng và xã hội.

Sức mạnh đổi mới giáo dục đại học không bắt đầu từ đâu xa mà bắt đầu từ sự tự đổi mới của từng thầy giáo, cô giáo, từng cán bộ, học
viên, sinh viên trong từng trường, trong toàn ngành cộng hưởng với sự đổi mới của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thống nhất nhận thức, quyết tâm hành động, dù khó khăn, phức tạp đến mấy, công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa XI nhất định sẽ thành công./.

GS.TS. PHÙNG HỮU PHÚ 


-------------------------
(1) Dẫn theo Nguyễn Thiện Tông: Mô hình đại học đa lĩnh vực trong thời đại kinh tế tri thức, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 17, tháng 11-2013, tr.47.
(2) Theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2013-2014 của Diễn đàn kinh tế thế giới, Việt Nam xếp thứ 70 trong 148 nước về chỉ số cạnh tranh toàn cầu, trong đó giáo dục đại học xếp thứ 95.
(3) (8) (9) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2013, tr. 122, 120, 132.
(4) Học viện CT-HC quốc gia Hồ Chí Minh: Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài - một số kinh nghiệm của thế giới, Nxb CT-HC, H, 2012, tr.41-42.
(5) Richard C. Levin: Sự trỗi dậy của đại học châu Á, trong sách “Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài - một số kinh nghiệm của thế giới, Nxb. CTQG, H, 2012, tr. 410.
(6) Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về Định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, tháng 12-1996.
(7) T.Savenkova: Khả năng cạnh tranh của các chuyên gia là vecstơ phát triển giáo dục trên con đường đi tới tiến bộ, trong sách “Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài - một số kinh nghiệm của thế giới, Sđd, tr. 43.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất