Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của công tác tư tưởng, trong thời gian qua, công tác tuyên truyền đã thể hiện vai trò quan trọng, là mũi nhọn xung kích, là vũ khí sắc bén trong việc cung cấp và định hướng thông tin trước những diễn biến phức tạp, khó lường từ tình hình trong nước và quốc tế; đã có những đóng góp quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; “góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” [1]; góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác tuyên truyền trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ những hạn chế: Nội dung tuyên truyền còn nghèo nàn, thiếu sức hấp dẫn, chưa đáp ứng nhu cầu thông tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Phương thức tuyên truyền còn lạc hậu, thiếu tính thuyết phục, hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế.
Trình độ đội ngũ làm công tác tuyên truyền chưa theo kịp, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác tuyên truyền trong tình hình mới, nhất là trong điều kiện của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đang diễn ra mạnh mẽ, tác động ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội… Năng lực nắm bắt, phân tích, tổng hợp, dự báo tình hình tư tưởng chưa cao; khả năng phát hiện, tham mưu, xử lý, giải quyết các vấn đề trong thực tiễn chưa kịp thời. “Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" còn bị động, hiệu quả chưa cao” [2] .
Hiện nay, nước ta đang đứng trước những vận hội và thách thức mới của thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng. Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đã và đang tiếp tục tạo thế và lực mới cho việc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những thành tựu, chúng ta cũng đứng trước nhiều thử thách. Các thế lực thù địch tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” bằng âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc.
Chúng tập trung chống phá trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng; xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những hạn chế, yếu kém của một bộ phận cán bộ, đảng viên nhằm phá hoại sự lãnh đạo của Đảng, hạ thấp những thành tựu to lớn của đất nước trong công cuộc đổi mới; thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội…
Với khả năng và ưu thế của mình, công tác tuyên truyền thực sự là một vũ khí sắc bén, mũi nhọn của cuộc đấu tranh tư tưởng; đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền phải nhạy bén nắm bắt kịp thời sự phát triển tình hình, đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến phức tạp có thể xảy ra, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch, góp phần định hướng dư luận, giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin của toàn dân, toàn quân vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Để đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền nhằm tăng cường minh bạch hóa thông tin tuyên truyền tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội cần tập trung làm tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, nâng cao tính khoa học, đầy đủ và kịp thời cung cấp thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Phương pháp của công tác tuyên truyền là việc sử dụng các biện pháp, các cách thức tác động vào con người, là việc sử dụng các yếu tố mang tính khách quan, tác động vào yếu tố chủ quan. Yếu tố khách quan đó của công tác tuyên truyền càng bao hàm nhiều tố chất khoa học, hợp lý thì tính thuyết phục càng cao, làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ngày càng dễ tiếp nhận và tự giác thực hiện. Trong công tác tuyên truyền, không nên dựa vào hay đưa ra những thông tin, những vấn đề phiến diện, một chiều, tuyệt đối hóa và công thức hoá. Phiến diện hoặc tuyệt đối hoá sẽ dẫn tới tước bỏ tính khoa học của công tác tuyên truyền và tính phong phú của thực tiễn, làm cho công tác tuyên truyền bị ngưng đọng và dẫn đến sự chậm trễ, sai lệch trong việc chỉ đạo và tổ chức hoạt động thực tiễn.
Công tác tuyên truyền trong giai đoạn nào của cách mạng cũng phải đi trước một bước, chủ động nắm sát diễn biến tư tưởng, tâm trạng trong Đảng và trong nhân dân, định hướng tư tưởng đúng đắn và kịp thời, làm chủ được dư luận xã hội trước những tác động đan xen của những yếu tố tích cực, tiêu cực trên thế giới và trong nước. Công tác tuyên truyền không phải chỉ chạy theo giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh, mà phải dự báo trước các vấn để có thể phát sinh để có phương án ngăn ngừa, không để những vấn đề đó diễn ra trên thực tế.
Sớm hoàn thiện chiến lược thông tin, kịp thời định hướng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cũng như sự quản lý của Nhà nước về phát triển thông tin, báo chí trong điều kiện mới. Phát huy tự do tư tưởng, khuyến khích độc lập suy nghĩ, sáng tạo khoa học là cách tốt nhất để nắm được tình hình tư tưởng, tâm tư, suy nghĩ của các tầng lớp nhân dân; kịp thời phát hiện những vấn đề tư tưởng đã, đang và sẽ nảy sinh, trên cơ sở đó chủ động đề ra đề phương hướng, biện pháp phòng, chống thiết thực, hiệu quả.
Tạo dựng “Sức đề kháng” trước những thông tin sai trái cho cán bộ, đảng viên và người dân. “Sức đề kháng” đó cần được dựa trên cơ sở nâng cao tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng, trong đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái và thù địch... Thực tế cho thấy, do thiếu thông tin cho nên khi có những sự kiện lớn đột ngột diễn ra, một số cán bộ, đảng viên lúng túng, tỏ ra dao động, thậm chí có biểu hiện giảm sút lòng tin đối với Đảng và chế độ. Tuy nhiên, nếu “miễn dịch” với những thông tin về sự suy thoái, biến chất, tham nhũng trong một bộ phận cán bộ lãnh đạo thì không thể mặc nhiên để cho điều đó lây lan và phát triển, bởi nó sẽ dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm, thái độ bàng quang của đảng viên trước sự suy thoái, biến chất của một bộ phận đảng viên.
Hai là, đổi mới nội dung, cách thức triển khai công tác tuyên truyền.
Với tính cách là một hình thức của công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền góp phần trực tiếp và thiết thực trong việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội để mang lại hiệu quả thiết thực trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Bởi vậy, một mặt, phải nhận rõ công tác tuyên truyền là một thành tố hữu cơ gắn liền với toàn bộ quá trình đó; mặt khác, phải đổi mới nội dung, cách thức triển khai công tác tuyên truyền, trong đó, đổi mới nội dung là khâu đột phá của công tác tuyên truyền, cụ thể là: bám sát mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; giữ gìn, phát huy bản sắc truyền thống dân tộc; tìm những giá trị đồng thuận xã hội cao; phù hợp với trình độ, vùng miền, đối tượng.
Công tác tuyên truyền cần được tiến hành mạnh hơn ở các thành phố lớn, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền đường lối, chính sách cho nhân dân, đặc biệt là những chính sách liên quan đến lợi ích trực tiếp của người dân, truyền thông về tình hình thực hiện chính sách trong thực tế. Tập trung công tác tuyên truyền vào những thắc mắc, bức xúc nhất của nhân dân trong từng giai đoạn, trước mắt là các vấn đề về: tham nhũng, sự vi phạm pháp luật, sa sút đạo đức của công chức.
Cần phân nhóm đối tượng để có nội dung (thông điệp), hình thức, kênh tuyên truyền phù hợp với yêu cầu và điều kiện của nhóm. Cụ thể, có thể phân nhóm theo các tiêu thức: theo lợi ích (được hưởng lợi, không được hưởng lợi và bị thiệt thời); theo vị thế xã hội (nhóm cán bộ và người dân); theo vùng/địa lý (nhóm nông thôn và thành thị).
Phương thức tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ nhớ, dễ vận dụng, phù hợp với từng đối tượng, từng vùng miền trong cả nước. Đối với những đối tượng có trình độ dân trí cao và ở thành thị, chủ yếu tuyên truyền, giáo dục bằng việc nêu cao tinh thần tự giác, tránh lối tuyên truyền, giáo dục gò ép, khiên cưỡng. Phương tiện tuyên truyền có thể là tất cả các loại hiện có như sách, báo, tranh ảnh, phát thanh, truyền hình… Đối với những đối tượng có trình độ dân trí thấp và ở miền núi, biên giới, hải đảo..., chủ yếu tuyên truyền, giáo dục bằng biện pháp vận động, thuyết phục, trong đó đặc biệt đề cao vai trò của các đoàn thể nhân dân, của những người có uy tín như già làng, trưởng bản.
Phương tiện tuyên truyền chủ yếu là phát thanh, truyền hình, tranh ảnh, tổ chức nghe nói chuyện, kể chuyện, biểu diễn văn nghệ, lễ hội... Ngoài ra, cần kết hợp chặt chẽ việc tuyên truyền, giáo dục chính trị - tư tưởng với Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, với các phong trào thi đua yêu nước, phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện.
Đối với mỗi vấn đề tuyên truyền, cổ động, cần có lộ trình, quy trình, mục đích, bước đi cụ thể, dưới các hình thức khác nhau để việc tuyên truyền được thực hiện một cách tự nhiên, không hình thức, không gượng ép, chú ý nghệ thuật, nâng cao hiệu quả. Kết hợp đa dạng, nhiều hình thức, nhiều kỹ năng và áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong tình hình mới, tạo ra sự đồng thuận cao nhất trong xã hội.
Đổi mới cách thức tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, các phong trào thi đua yêu nước theo hướng thiết thực, không phô trương, hình thức, lãng phí, phù hợp với điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bản chất xã hội chủ nghĩa của thi đua yêu nước trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta, các chủ thể của phong trào thi đua phải tính đến sự thống nhất và mâu thuẫn trong việc giải quyết các lợi ích; làm sao để trong mỗi mục tiêu của phong trào thi đua đều chứa đựng các khả năng giải quyết hài hoà các lợi ích - giữa lợi ích quốc gia, dân tộc, giai cấp, toàn xã hội với lợi ích của từng tập thể, từng doanh nghiệp, từng nhóm xã hội, từng gia đình và từng cá nhân; đặc biệt, trong điều kiện Việt Nam hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế, vấn đề lợi ích càng trở nên cần thiết khi có yếu tố nước ngoài tham gia vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thực hiện mở rộng thông tin, bảo đảm quyền được thông tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thông tin minh bạch kịp thời có định hướng là rất quan trọng để nâng cao dân trí, hướng dẫn dư luận, giáo dục chính trị - tư tưởng, chủ động ngăn chặn và đấu tranh với những luồng thông tin sai lệch, các luận điệu xuyên tạc, phản động. Thông tin cần đa dạng để đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của nhân dân nhưng phải chống khuynh hướng thương mại hoá, chạy theo những thị hiếu không lành mạnh. Việc cung cấp thông tin phải kịp thời, đúng đối tượng và đúng thời điểm. Các cơ sở đảng cần có sự nhận diện thông tin thật sáng suốt. Thông tin có giá trị nhất định khi nó có thể thay đổi niềm tin và hành động nhưng nó cũng có thể phản tác dụng khi xuất hiện không đúng thời điểm, không phù hợp với đối tượng. Cùng với việc mở rộng nội dung và minh bạch thông tin thì cần phải thực hiện bảo vệ bí mật Nhà nước nhưng phải tránh tình trạng lợi dụng quy định để “mật hoá” văn bản, bưng bít thông tin gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.
Ba là, thường xuyên chủ động nắm bắt tư tưởng, thái độ của các tầng lớp trong xã hội; mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại.
Bám sát thực tiễn đời sống không chỉ là bám sát đời sống của cán bộ, đảng viên mà điều quan trọng là phải thâm nhập, tìm hiểu đời sống của quần chúng nhân dân; thường xuyên nắm bắt thái độ, niềm tin, dư luận xã hội thông qua các cuộc điều tra xã hội học và các phương tiện thông tin đại chúng để có những giải pháp phát huy mặt tích cực; kịp thời chấn chỉnh và uốn nắn những biểu hiện tiêu cực... Chuyển hướng mạnh mẽ từ thông tin một chiều, định hướng từ trên xuống dưới sang chú trọng thông tin hai chiều; tăng cường đối thoại, lắng nghe thông tin thực tiễn từ cơ sở.
Xây dựng và thực hiện quy chế, quy định mọi tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở và mọi đảng viên đều có trách nhiệm trực tiếp làm công tác tư tưởng. Bí thư cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải lập kế hoạch cụ thể chỉ đạo công tác tư tưởng, chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cơ quan, đơn vị mình, có biện pháp giải quyết kịp thời. Khẩn trương xây dựng xong và đưa vào thực tiễn, vào cuộc sống cơ chế cấp ủy đảng tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước từ trung ương đến cơ sở với các cơ quan làm công tác tư tưởng trong việc triển khai kế hoạch kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề bức xúc của nhân dân... cần nêu ra yêu cầu và chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa đối với các cấp cơ sở trong công tác tư tưởng, khắc phục tình trạng “quan liêu”, “xa dân”.
Theo đó, có thể đề ra quy định: ba tháng một lần, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp phải trực tiếp gặp gỡ, đối thoại với nhân dân ở cơ sở. Nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền, đoàn thể trong công tác tư tưởng đối với dân nói chung và thành viên đoàn thể nói riêng. Có thể lấy số “đơn thư khiếu nại, tố cáo” vượt cấp làm thước đo mức độ hoàn thành nhiệm vụ của hệ thống chính trị các cấp.
Mở rộng phạm vi, đồng thời nâng cao hiệu quả để tạo bước phát triển về chất công tác thông tin đối ngoại. Công tác này hướng vào ba đối tượng: cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài định cư ở Việt Nam và nhân dân các nước trên thế giới. Phát huy mạnh mẽ hoạt động thông tin đối ngoại, phục vụ có hiệu quả các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm ngày càng có nhiều sản phẩm, di sản văn hóa của Việt Nam được tuyên truyền, quảng bá ra nước ngoài; từng bước xây dựng Việt Nam thành địa chỉ giao lưu văn hóa sôi động trong khu vực và trên thế giới.
Có thể nhận thấy diễn biến về tư tưởng xã hội hiện nay khá phức tạp, trong đó có sự dao động về niềm tin đối vối con đường phát triển của đất nước, đối với chế độ xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng. Để khắc phục những hiện tượng tiêu cực đó, cần có căn cứ xác thực và hiểu được cặn kẽ nguyên nhân của nó. Mọi tư tưởng đều bắt nguồn từ quan hệ lợi ích và tâm lý xã hội, do vậy, phải “bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc” cho căn bệnh tư tưởng xã hội nói trên từ nguyên nhân của nó là quan hệ lợi ích và cơ chế quản lý hành chính xã hội. Thường xuyên có sự bổ sung, điều chỉnh tiêu chí đánh giá khách quan tác động của việc thực hiện công tác tuyên truyền sau mỗi bước đi và so sánh với mục tiêu đặt ra cần đạt được. Có kế hoạch, lộ trình, các bước thực hiện và có điều tra dư luận xã hội đánh giá mức độ thành công cũng như phản ứng của dư luận đối vối các vấn đề được tuyên truyền.
Bốn là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và cơ chế quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo chí, xuất bản.
Trong tình hình mới, đòi hỏi các cơ quan báo chí, xuất bản phải tích cực học tập và tham khảo những kinh nghiệm trong quá trình đổi mối kinh tế, đồng thời, huy động được tính chủ động và tính sáng tạo của những người làm công tác này trên mặt trận tư tưởng, lý luận.
Trước hết, cần coi trọng hiệu quả xã hội trong tuyên truyền, bảo đảm sự thống nhất giữa hiệu quả xã hội với hiệu quả kinh tế. Tổ chức lại lực lượng báo chí, truyền thông đại chúng, phát huy mạnh mẽ tính tích cực, vai trò cung cấp thông tin bảo đảm kịp thời, khách quan, trung thực, công khai và vai trò giám sát, phản biện xã hội của báo chí. Các phương tiện thông tin đại chúng, sản phẩm của báo chí và xuất bản là sản phẩm tinh thần đã được vật chất hóa, có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân; do vậy, phải chủ động ngăn chặn kịp thời các văn hóa phẩm có nội dung truyền bá tư tưởng phản động, lệch chuẩn giá trị xã hội, bạo lực, mê tín dị đoan, gây chia rẽ nội bộ... Tiếp tục phát triển sự nghiệp báo chí, xuất bản đi liền với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đổi mới sâu sắc công tác lãnh đạo, quản lý và bản thân hoạt động báo chí, xuất bản.
Thực tế cho thấy, sức mạnh của thông tin tuyên truyền có hai mặt và sự tác động của nó là khó lường. Chẳng hạn, việc đưa thông tin về chống tham nhũng là vô cùng cần thiết nhưng nếu không nhận diện sáng suốt sẽ dẫn đến thái độ bi quan, thất vọng của người dân, của cán bộ, đảng viên về những quan chức, lãnh đạo tham nhũng, dẫn đến tình trạng giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào bản chất của chế độ. Công tác tuyên truyền phải luôn tạo môi trường dân chủ thật sự trong sinh hoạt đảng và các hoạt động khác. Đặc biệt, thông tin hai chiều có ý nghĩa quan trọng trong việc củng cố niềm tin cũng như nhận diện những biến đổi tư tưởng và các thang giá trị trong đời sổng xã hội.
Năm là, gắn kết chặt chẽ công tác tuyên truyền với nhiệm vụ phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việc gắn kết chặt chẽ công tác tuyên truyền với nhiệm vụ phát triển tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó trọng tâm là lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, quốc phòng - an ninh, đối ngoại... nhằm theo sát các diễn biến, góp phần kịp thời xử lý, giải quyết các tình huống, đã trở thành một thành tố tích cực tác động trực tiếp đến sự phát triển của các lĩnh vực đó. Thực tiễn đòi hỏi công tác tuyên truyền cần và phải có mặt trong cả các tiến trình, sự kiện, hiện tượng, phong trào để có tiếng nói có sức thuyết phục, có tác động thực tế.
Chẳng hạn, trong các hoạt động văn hoá tâm linh, cần khuyến khích các hoạt động mang ý nghĩa tích cực, có ích cho việc xây dựng và phát triển các giá trị văn hoá tinh thần, đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam; đồng thời, kiên quyết phản đối các hành vi xuyên tạc ý nghĩa vì con người của văn hoá tâm linh. Định hướng và quản lý chặt chẽ hơn nữa các hoạt động văn hoá tâm linh sao cho phát huy được mặt tích cực, mặt tốt của chúng, kể cả các hoạt động tâm linh ngoại cảm; lập lại trật tự, kỷ cương trong các hoạt động văn hoá tâm linh; đồng thời kiên quyết đấu tranh loại trừ mặt tiêu cực, mặt xấu, các hành vi lợi dụng các hoạt động văn hoá tâm linh, hoạt động tầm linh ngoại cảm để mưu đồ lợi ích cá nhân hoặc các mục đích phản văn hoá khác, trái với ý nghĩa cao đẹp của văn hoá tâm linh người Việt.
Để bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa công tác tuyên truyền với nhiệm vụ nói trên, công tác tuyên truyền cần phải tích cực thúc đẩy cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, đồng thời góp phần giải quyết một cách kịp thời, có hiệu quả những bức xúc trong nhân dân và thực hiện dân chủ, công khai hoá trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sáu là, đổi mới phương thức, nâng cao tính chủ động trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ đảng viên.
Các thế lực thù địch đã và đang ráo riết thực hiện “diễn biến hoà bình”, tung ra các quan điểm sai trái, thù địch không phải là hoạt động tự phát, tuỳ hứng, mà là một tổng thể các hoạt động được tiến hành một cách có tổ chức, có sự chỉ đạo hệ thống theo từng đợt, từng giai đoạn, trên từng nội dung, từng lĩnh vực cụ thể. Để chống lại các quan điểm sai trái, thù địch, cần có sự chỉ đạo chung thống nhất, nhằm tiến hành đấu tranh một cách có tổ chức, chặt chẽ, tích cực, chủ động. Không có sự chỉ đạo chung thống nhất thì không thể tạo nên sự thống nhất trong hành động đấu tranh, do đó, không tạo nên được sức mạnh cần thiết để có thể phê phán, bác bỏ, làm thất bại các quan điểm sai trái, thù địch.
Đảng và Nhà nước cần thống nhất quan điểm chỉ đạo mang tính chiến lược lâu dài và thể hiện rõ tính tích cực, chủ động, mức độ, hình thức và biện pháp đấu tranh đối vối các quan điểm sai trái, thù địch trong từng giai đoạn cụ thể. Từ đó, làm cơ sở cho các tổ chức, cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành xác định yêu cầu, biện pháp, hình thức đấu tranh cụ thể trên từng nội dung, từng vấn đề, đối với từng đối tượng cụ thể, trong từng giai đoạn.
Sự chỉ đạo chung của Đảng và Nhà nước không chỉ thuần tuý mang tính chất chỉ đạo, mà còn là sự thể hiện thái độ của Đảng và Nhà nước ta đối với các quan điểm sai trái, thù địch, làm cơ sở, chỗ dựa vững chắc cho các lực lượng tuyên truyền, đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Điều đó sẽ tránh được khuynh hướng tiêu cực, bị động, những biểu hiện “tả khuynh” và hữu khuynh, tạo nên sự đồng thuận xã hội và ổn định chính trị, tư tưởng, nâng cao tính chiến đấu, thuyết phục trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Coi trọng “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, dảng viên. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch” . Vì thế, cần đổi mới cách thức đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng:
Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ giữa công tác giáo dục với công tác tuyên truyền giữa tính chiến đấu và tính khoa học, thuyết phục trong quá trình đấu tranh; có sự tổ chức lực lượng một cách bài bản, nghiên cứu thấu đáo các quan điểm sai trái, cập nhật thông tin về các quan điểm để có thể đấu tranh trên cơ sở lý luận khoa học, có sức thuyết phục, được thực hiện một cách thường xuyên, chứ không chỉ rộ lên theo vụ việc, dựa trên những thông tin giống nhau được cung cấp cho các báo chí.
Cần điều tra, phân tích dư luận xã hội xung quanh các vụ việc đang là chủ đề để tập trung đấu tranh, bởi có như vậy mới biết được “bên lề sự kiện”, người dân đang nghĩ gì, nói gì để có thể có hình thức, cách thức tuyên truyền định hướng tư tưởng. Việc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” cần được đặt trong bối cảnh hết sức cụ thể: các loại thông tin đều có thể rất dễ dàng tìm thấy trên mạng internet và đối tượng đọc các bài chống “diễn biến hòa bình” là những người có trình độ, có khả năng phân tích, phản biện.
Thứ hai, cần nâng cao khả năng miễn dịch, sức đề kháng của cơ thể xã hội ta, của hệ thống chính trị, nhất là của Đảng, của cán bộ, đảng viên trước sự công kích, phá hoại của các quan điểm sai trái, thù địch. Mũi nhọn cơ bản và tập trung hướng tới của các quan điểm sai trái, thù địch là nhằm vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và các thành viên của tổ chức lãnh đạo cao nhất này, là nhằm vào đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp của Đảng và Nhà nước.
Vì thế, sự vững mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức của tổ chức đảng các cấp; sự đúng đắn của đường lối, chính sách và phương thức lãnh đạo khoa học của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ; tấm gương trong sáng, mẫu mực về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, phương pháp tác phong công tác khoa học, sâu sát, dân chủ của các ủy viên Trung ương, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp là sự phản ánh sức đề kháng, khả năng miễn dịch của chúng ta, vừa là nhân tố quyết định khả năng chiến đấu của Đảng trước các quan điểm sai trái, thù địch.
V.I.Lênin đã chỉ ra không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta. Đảng ta cũng nhận định sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nói chung, sức chiến đấu và khả năng đề kháng trước các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng. Đã đến thời điểm mà cuộc đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch đòi hỏi Đảng ta phải có thái độ kiên quyết hơn, nghiêm khắc hơn nữa trong xây dựng và tự chỉnh đốn bản thân mình, trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, cao cấp, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận của đội ngũ này.
Sự thắng lợi của cuộc đấu tranh này phụ thuộc quyết định vào chính bản thân chúng ta, vào sức mạnh và khả năng đấu tranh của chúng ta; mà trước hết và quyết định nhất là phụ thuộc vào sự vững mạnh của Đảng, Nhà nước ta, trình độ, khả năng lãnh đạo, tổ chức với những chủ trương, biện pháp phù hợp của Đảng và Nhà nước ở tất cả các cấp, sự nỗ lực và quyết tâm của toàn thể cán bộ, đảng viên. Hiện nay cần tăng cưòng công tác dự báo tư tưởng, chủ động phòng chống “tự diễn biến”, chủ động nắm vững tình hình để kịp thời định hướng, không bị động trước các tình huống có thể xảy ra.
Tổ chức đấu tranh có hiệu quả, dựa trên cơ sở khoa học đối với các luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch. Trên thực tế có nhiều bài viết đấu tranh chống “diễn biên hòa bình” trên các loại hình báo chí thiếu sắc bén, tính thuyết phục chưa cao... Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó là do chính bản thân người viết chưa nghiên cứu kĩ, chưa hiểu sâu sắc bản chất vấn đề, chưa chủ động tiếp cận, thu thập đầy đủ và xử lý thông tin để có thể phản bác một cách khoa học, có luận cứ đối với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại, chủ động tuyên truyền các giá trị, hình ảnh của đất nước ra thế giới. Trong xu thế quốc tế hóa, không có một quốc gia nào có thể tách biệt với thế giới bên ngoài. Vì thế, cần đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ các nhà hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, những người kinh doanh có tài năng, bản lĩnh, tâm huyết với dân tộc, tiếp thu văn hóa, văn minh của nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc, phát triển kinh tế, giữ gìn những giá trị tinh hoa của dân tộc, phát triển đất nước.
Thành lập các trung tâm Việt Nam học ở một số nước có nền khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quản lý tốt mạng internet cả hai chiều. Thường xuyên tổ chức các hội thảo khoa học với các tổ chức quốc tế về văn hóa, đất nước và con người Việt Nam, qua đó thế giới hiểu được về chúng ta hơn và chúng ta có điều kiện tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại, tìm hiểu các mô hình và sự giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa của các nước. Sưu tầm, chọn lọc những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc của Việt Nam để dịch ra tiếng nước ngoài và ngược lại; tổ chức giao lưu văn hóa với kiều bào ở nước ngoài. Hiện nay, lực lượng kiều bào của nước ta có hơn 3 triệu người, trong đó có khoảng 170.000 người có trình độ thạc sĩ và tiến sĩ, nhiều người trong số họ có xu hướng tiến bộ và luôn hướng về cội nguồn. Tận dụng sự giúp đỡ của họ sẽ thuận lợi cho sự phát triển khoa học, kỹ thuật và đấu tranh chống lại sự xuyên tạc của kẻ thù, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Có chính sách cụ thể để thu hút trí thức Việt kiều về nước làm việc, cống hiến cho đất nước, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để họ hướng về Tổ quốc và có thể cống hiến tài năng về khoa học và công nghệ phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tiến hành công tác tuyên truyền thông qua mạng internet một cách trực diện, liên tục, xây dựng những kênh thông tin trên môi trường mạng vừa tin cậy đối với Đảng và Nhà nước, vừa thân thiện với cộng đồng mạng để thực hành công tác thông tin, tuyên truyền một cách nhanh nhạy, hiệu quả. Mạng internet ngày càng trở thành môi trường cung cấp thông tin chủ yếu với nội dung đa dạng, phong phú, nhiều chiều. Các phương tiện tiếp nhận thông tin ngày càng hiện đại, tinh vi. Thông tin trên mạng tác động trực tiếp, mạnh mẽ, nhanh chóng đến các tầng lớp nhân dân, trong đó có nhiều thông tin của các thế lực thù địch, phản động nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta. Trên thực tế, chúng ta không thể ngăn cấm các thế lực thù địch tự do phát tán thông tin sai sự thật, do vậy biện pháp hữu hiệu là phải chủ động xây dựng những kênh thông tin trên mạng để đấu tranh trực diện, liên tục vối những thông tin sai trái và thực hành công tác thông tin tuyên truyền một cách nhanh chóng, hiệu quả./.
Đinh Thị Mai - Phó Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 186.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 192-193.