Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả thương mại với các thị trường lân cận,
cần đẩy mạnh việc
tiếp cận, khai phá các thị trường mới, xa hơn.
Bài 2: ĐỔI MỚI XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI: KHAI PHÁ NHỮNG THỊ TRƯỜNG MỚI
Trong bối cảnh cạnh tranh thương mại ngày càng gay gắt, các chuyên gia
cho rằng bên cạnh việc nâng cao hiệu quả thương mại với các thị trường
lân cận, các đối tác đã có Hiệp định thương mại tự do, Việt Nam cần đẩy
mạnh việc tiếp cận, khai phá các thị trường mới, xa hơn như khu vực
Trung Đông, châu Phi, Mỹ Latinh... nhằm đa dạng hóa thị trường và nâng
cao kim ngạch xuất khẩu.
Bà Võ Hồng Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu-châu Mỹ, Bộ Công
Thương, cho rằng Mỹ Latinh là khu vực có nền kinh tế phát triển năng
động và là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng thứ 2 thế giới,
chỉ sau châu Á.
Những năm gần đây thị trường Mỹ Latinh đang dần trở thành đối tác thương
mại quan trọng của Việt Nam với mức tăng trưởng khoảng 20%/năm. Brazil,
Argentina, Mexico và Chile là những đối tác thương mại có kim ngạch
song phương đạt trên 1 tỷ USD.
Theo bà Võ Hồng Anh, ưu điểm của thị trường Mỹ Latinh là quy mô lớn với
hơn 650 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người cao ở mức từ
15.000-16.000 USD/người/năm. Vì vậy, nhu cầu tiêu dùng của khu vực này
khá lớn; trong đó, nhiều mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế như gạo, giày
dép, dệt may, thủy sản, đồ gỗ, máy tính...
Việc phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực
Mỹ Latinh được xem là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam có thể đa dạng
hóa thị trường, giảm tải cho các thị trường truyền thống, từ đó giảm bớt
rủi ro cho doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường thế giới không ngừng
biến động. Mục tiêu của Việt Nam là đưa kim ngạch thương mại song phương
Việt Nam-Mỹ Latinh lên mức từ 15-18 tỷ USD vào năm 2021.
Một khu vực khác được các chuyên gia đánh giá là có nhiều tiềm năng cho
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đó là Trung Đông và châu Phi. Bà Phạm
Hoài Linh, Vụ Thị trường châu Á-châu Phi, Bộ Công Thương, cho biết Trung
Đông là thị trường có sức mua lớn, khả năng thanh toán cao do có nguồn
tài chính dồi dào.
Nhu cầu tiêu dùng của các nước Trung Đông chủ yếu phụ thuộc vào hàng hóa
nhập khẩu; trong đó có nhiều mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh. Trong
khi đó, châu Phi là khu vực có nhu cầu nhập khẩu lương thực, thực phẩm,
hàng tiêu dùng rất lớn. Thị trường châu Phi cũng không yêu cầu chất
lượng hàng hóa quá cao.
Để khai thác được các thị trường này, bà Phạm Hoài Linh cho rằng doanh
nghiệp cần tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại như khảo
sát thị trường, tham dự các hội chợ, triển lãm chuyên ngành để nắm bắt
nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần xây dựng chiến
lược thâm nhập thị trường phù hợp, sản xuất sản phẩm có chất lượng, quy
cách, mẫu mã phù hợp với quy định và tập quán tiêu dùng.
Cùng với việc tiếp cận các thị trường theo khu vực địa lý, các doanh
nghiệp Việt Nam cũng được khuyến khích khai phá thị trường theo nhóm đối
tượng người tiêu dùng, đặc biệt là thị trường các nước Hồi giáo.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng, đại diện văn phòng chứng nhận Halal-HCA Việt
Nam, cho biết số lượng người Hồi giáo trên toàn thế giới lên tới 1,6 tỷ
người, tập trung nhiều ở khu vực Trung Đông và một số nước ASEAN. Đây là
nhóm đối tượng sử dụng các sản phẩm Halal (được phép dùng), ngành công
nghiệp Halal đang phát triển rất nhanh, có doanh thu lên tới 2.300 tỷ
USD/năm và thu hút không chỉ các nước Hồi giáo mà cả các nước không có
người Hồi giáo tham gia.
Theo bà Hằng, Việt Nam có nhiều nhóm sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn
Halal của các nước Hồi giáo như nông sản, thủy sản, nhưng hiện nay chưa
có nhiều doanh nghiệp Việt Nam quan tâm, phát triển các sản phẩm đạt
tiêu chuẩn Halal, phục vụ nhu cầu của cộng đồng người Hồi giáo.
Thị trường các nước Hồi giáo có ít rào cản về mặt kỹ thuật và mức thuế
nhập khẩu cũng rất thấp. Hiện nay, nhiều quốc gia Hồi giáo cũng có động
thái kết nối và tìm kiếm hàng hóa, thực phẩm của Việt Nam. Đó là cơ hội
lớn cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc mở rộng thị trường và nâng cao
kim ngạch xuất khẩu.
Bà Bùi Thị Thanh An, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại - Bộ Công
Thương, cho rằng năm 2019, Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội mở rộng xuất
khẩu khi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) có hiệu lực, nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức do áp
lực cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ hơn. Vì vậy, ngoài việc chuẩn bị các
điều kiện để tận dụng cơ hội mà các Hiệp định thương mại tự do mang lại,
Việt Nam nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cần đa dạng hóa các
hoạt động xúc tiến thương mại hướng tới các thị trường mới, có nhu cầu
hàng hóa phù hợp với năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Bên cạnh các hoạt động mang tính truyền thống như tổ chức các hội chợ,
triển lãm thì cần có nhiều chương trình kết nối trực tiếp doanh nghiệp
với người mua hàng nước ngoài nhằm giới thiệu với các đầu mối thu mua về
năng lực cung ứng của doanh nghiệp thành phố. Ngoài ra, cũng cần phát
huy hiệu quả các chuyến đi tham quan, tìm hiểu thông tin và kết nối với
thị trường nước ngoài.
Theo bà Bùi Thị Thanh An, các chương trình xúc tiến thương mại của Thành
phố Hồ Chí Minh ở nước ngoài cần kết hợp với các chương trình xúc tiến
thương mại của quốc gia nhằm nâng cao quy mô và cộng hưởng hiệu quả
quảng bá các thương hiệu tầm quốc gia. Đồng thời, kết hợp với các hội
chợ triển lãm chuyên ngành lớn của thế giới để tạo ra sự lan tỏa hiệu
quả quảng bá các sản phẩm cho doanh nghiệp Việt Nam.
Song song với việc tổ chức xúc tiến thương mại, cần làm tốt công tác dự
báo, cung cấp thông tin thị trường, kết nối với các tham tán, thương vụ
của Việt Nam tại nước ngoài cũng như các thương vụ nước ngoài tại Việt
Nam để tạo cầu nối thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, đóng góp tích cực cho sự
tăng trưởng chung của kinh tế cả nước./.
Xuân Anh (TTXVN)