Ứng dụng công nghệ viễn thám và sử dụng nguồn dữ liệu ảnh từ trạm thu
ảnh vệ tinh hiện có là giải pháp hữu hiệu để có được bộ thông tin dữ
liệu cơ bản về tài nguyên, môi trường biển của Việt Nam.
Mục tiêu này đang thành hiện thực với Dự án “Giám sát tài nguyên môi
trường biển, hải đảo bằng công nghệ viễn thám,” do Cục Viễn thám Quốc
gia và Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam phối hợp thực hiện.
Đây là dự án thành phần của “Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và
quản lý tài nguyên môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020”
(Đề án 47).
Theo Cục trưởng Cục Viễn thám Quốc gia Nguyễn Xuân Lâm, công nghệ viễn
thám có ưu điểm vượt trội so với các phương pháp truyền thống khác, là
công cụ duy nhất có hiệu quả để giám sát tài nguyên môi trường biển và
hải đảo với thông tin không gian rộng, đa thời gian, chính xác, khách
quan, nhanh chóng.
Các yếu tố vật lý biển, kiểm kê, xác định vị trí, hình dáng, diện tích
các đảo, xác định công trình trên các hải đảo và đặc biệt quan trọng đối
với những vùng xa bờ, những nơi khó có điều kiện tiếp cận để điều tra
bằng các phương pháp truyền thống như quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa,...
Việc sử dụng nguồn tư liệu ảnh vệ tinh thu được theo những khoảng thời
gian khác nhau sẽ cho phép giám sát biến động tài nguyên môi trường
biển, hải đảo theo thời gian. Các nội dung và quy mô thực hiện bao gồm 3
nhóm nội dung chính.
Trước hết là xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin địa lý đa thời gian cho
toàn vùng biển và hải đảo bằng công nghệ viễn thám để thành lập hệ thống
bình đồ ảnh số vệ tinh Modis, Meris, Asar tỷ lệ 1:1.000.000 toàn vùng
biển đa thời gian, bình đồ ảnh Spot tỷ lệ 1:50.000 ven biển và tỷ lệ
1:25.000 các đảo và bãi đá ngầm thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thông qua Dự án, Cục Viễn Thám đã thành lập hệ thống bản đồ địa hình
quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa tỷ lệ 1:25.000, tỷ lệ 1:250.000
các đảo nổi và bãi đá ngầm độ sâu đến 10m.
Đồng thời xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên đề về tài nguyên môi trường biển
và hải đảo bằng công nghệ viễn thám để xây dựng bộ bản đồ chuyên đề về
lớp phủ bề mặt (landcover) tỷ lệ 1:50.000 cho vùng ven biển và các đảo
nổi.
Xây dựng hệ thống bản đồ chuyên đề tỷ lệ 1:1.000.000 kèm theo là các bộ
số liệu về các yếu tố vật lý, hoá học, sinh vật và môi trường biển, hải
đảo cho toàn vùng lãnh hải Việt Nam gồm bản đồ trường nhiệt độ bề mặt
nước biển; bản đồ phân bố hàm lượng diệp lục nước biển; bản đồ xác định
hàm lượng muối bề mặt biển.
Xây dựng hệ thống giám sát đa thời gian tài nguyên môi trường biển và
hải đảo Việt Nam trên nền công nghệ viễn thám và địa tin học để xây dựng
nội dung cho hệ thống giám sát đa thời gian tài nguyên môi trường biển
và hải đảo; xây dựng cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin địa lý và chuyên
đề tài nguyên môi trường biển.
Với nỗ lực vượt bậc, Cục Viễn thám Quốc gia đã đưa ra kết quả hoàn toàn đáp ứng được những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Tiêu biểu là thiết lập được cơ sở dữ liệu thông tin địa lý ảnh
vệ tinh đa thời gian cho toàn vùng biển và hải đảo Việt Nam.
Thành lập được bộ bản đồ địa hình tỷ lệ 1:25.000 và 1:250.000
bằng tư liệu ảnh vệ tinh cho 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thiết lập được cơ sở dữ liệu chuyên đề về một số yếu tố môi
trường vật lý, hóa học và sinh vật vùng biển theo những
khoảng thời gian trong năm, các yếu tố lớp phủ bề mặt vùng ven
biển và hải đảo Việt Nam, mở ra triển vọng to lớn trong việc tăng
cường năng lực cho việc áp dụng công nghệ viễn thám phục vụ
điều tra cơ bản, giám sát tài nguyên và môi trường biển, hải
đảo Việt Nam trong thời gian tới.
Việc áp dụng công nghệ viễn thám trong điều tra, giám sát tài nguyên môi
trường biển, hải đảo là hoàn toàn khả thi và khoa học. Đồng thời,
khẳng định hiệu quả đầu tư của trạm thu ảnh vệ tinh quốc gia do
Cục Viễn thám Quốc gia quản lý vận hành. Qua đó, góp phần tăng cường an
ninh quốc phòng, bảo đảm chủ quyền vùng lãnh hải quốc gia.
Các nội dung thực hiện của Dự án đã khai thác tối ưu nguồn tư liệu
ảnh vệ tinh thu được tại Trạm thu ảnh đã được đầu tư, góp phần thực
hiện “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020”
của Thủ tướng Chính phủ, nâng cao hiệu quả “Dự án xây dựng hệ thống
giám sát tài nguyên thiên nhiên và môi trường tại Việt Nam.”
Mặt khác, dự án khẳng định sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ kỹ thuật,
cập nhật thêm những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm
trong xử lý, phân tích ảnh, chiết xuất thông tin, số liệu về các
yếu tố vật lý, hóa học, sinh vật và môi trường biển./.
Văn Hào (TTXVN)