Trong lịch sử, liên kết cộng đồng thể hiện rõ qua tinh thần đoàn kết để bám trụ trước thiên nhiên, đoàn kết để chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai. Khi đất nước hòa bình, liên kết cộng đồng thể hiện trong hành động chung tay để xây dựng Tổ quốc và liên kết cộng đồng để trở thành giá trị cao đẹp của dân tộc ta, làm nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.
“Truyền thống
là tập hợp những tư tưởng, tình cảm thói quen trong tư duy, trong lối
sống và ứng xử của một cộng đồng nhất định được hình thành trong lịch sử
và trở nên ổn định được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”(1).
Truyền thống có vai trò điều tiết, kiểm soát hoạt động và tiến trình của
đời sống xã hội; không phải là cái gì đó cố định vĩnh viễn, bất biến mà
nó có thể được cải thiện bổ sung và phát triển qua thời gian; là yếu tố
di tồn truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời
khác, chi phối hành vi xã hội của cộng đồng người; truyền thống là
truyền lại kinh nghiệm quá khứ cho các thế hệ mai sau… “Lịch sử chẳng
qua chỉ là sự nối tiếp của những thế hệ riêng rẽ, trong đó, mỗi thế hệ
đều khai thác những vật liệu tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả
những thế hệ trước để lại, do đó mỗi thế hệ, một mặt, tiếp tục các hoạt
động được truyền lại trong đó hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt
khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay
đổi”(2). Vai trò của truyền thống đối với quá trình vận động, phát triển
của xã hội thể hiện ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực của
truyền thống ở chỗ, nó là yếu tố nội lực, là điểm tựa, là giá đỡ cho sự
tiến bộ và phát triển của xã hội. Mặt tiêu cực của truyền thống là nó
có thể tạo ra sức ỳ, sự trì kéo làm chậm quá trình phát triển xã hội. Ở
từng thời kỳ lịch sử khác nhau, giai cấp thống trị thường lợi dụng khai
thác truyền thống để củng cố duy trì sự thống trị bền vững của giai cấp
mình.
Mỗi
quốc gia dân tộc có truyền thống của mình tùy theo điều kiện tự nhiên
hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà nó có quá trình hình thành phát triển sớm
muộn khác nhau. Quá trình hình thành, phát triển truyền thống dân tộc
Việt Nam do sự tác động tổng hợp hằng xuyên của nhiều yếu tố: hoàn cảnh
tự nhiên (hay còn gọi là đặc điểm địa lý), hoàn cảnh lịch sử, môi trường
văn hóa khu vực. Trải qua bao thế hệ con người tiếp nói, truyền thống
dân tộc Việt Nam được lưu truyền, vun đắp và phát triển ngày càng phong
phú. Nó như động lực nội sinh tạo thành sức mạnh của cộng đồng người
Việt không chỉ ở quá khứ mà cả trong hiện tại và tương lai.
Truyền
thống liên kết cộng đồng được hình thành trước hết từ nhu cầu trong lao
động, sản xuất. Đặc điểm về địa hình, khí hậu, tài nguyên, sinh thái
Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn nhưng lại gây nhiều khó khăn,
thách thức với con người. Do cuộc sống đầy nỗi bất trắc đã tạo ra sự
liên kết của cộng đồng, mối liên kết cá nhân phụ thuộc vào cộng đồng dần
dần trở thành tập tục có cơ sở kinh tế - xã hội, bảo đảm tạo nên sợi
dây tinh thần nối giữa các cá nhân trong cộng đồng: gia đình - gia tộc -
làng - nước. Người Việt Nam quan tâm rất nhiều đến quan hệ cộng đồng vì
mọi hành vi của mỗi cá nhân được đánh giá tốt hay xấu, có hợp đạo lý,
lẽ phải hay không đều dựa vào các chuẩn mực quy tắc được xây dựng lên từ
cộng đồng.
Việt
Nam là một quốc gia dân tộc hình thành sớm và có một nền văn hóa sớm
phát triển. Những di chỉ của nền văn hóa Đông Sơn, đỉnh cao của nền văn
hóa cổ của người Việt, đã có từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công
nguyên. Sự lần lượt ra đời của nhà nước Văn Lang (khoảng thế kỷ VII
trước Công nguyên) và nhà nước Âu Lạc (thế kỷ thứ III trước Công nguyên)
đã chứng tỏ người Việt sớm có một triết lý sống, một triết lý hành động
cho mình trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt và kẻ thù xâm
lược.
Việt
Nam còn là một quốc gia có nhiều dân tộc cùng chung sống. Trong suốt
tiến trình lịch sử, các dân tộc luôn sát cánh bên nhau trong lao động
sản xuất cũng như trong chiến đấu và chưa hề xảy ra những cuộc chiến
tranh sắc tộc. Trước thiên tai và địch họa, các dân tộc lại càng đoàn
kết với nhau hơn. Trong khi vẫn giữ những sắc thái riêng, văn hóa các
dân tộc gia nhập vào nền văn hóa chung của một nước Việt Nam thống nhất,
tạo nên sự đa dạng cả về trình độ phát triển lẫn hình thức biểu hiện
của nó.
Do
vị trí địa lý nằm giữa trục giao lưu Đông - Tây và Nam - Bắc, Việt Nam
từ xưa đã chịu sự xâm nhập của nền văn minh Trung Hoa, Ấn Độ và sau này
là nền văn minh phương Tây. Qua những lần tiếp xúc ấy, dân tộc ta không
bị đồng hóa, không những giữ được bản sắc văn hóa của mình mà còn biết
chọn lọc làm phong phú, giàu đẹp thêm, nhờ biết tiếp thu và cải biến các
yếu tố bên ngoài phù hợp với giá trị cội nguồn của văn hóa dân tộc Việt
Nam. Bài học lịch sử của ông cha ta là quá trình tiếp nhận các giá trị
văn hóa ngoại sinh, ông cha ta không tiếp nhận cả hệ thống mà chọn lựa
những giá trị nào phù hợp với tâm hồn, cốt cách Việt Nam. Quá trình tiếp
nhận đã sắp xếp lại các bậc thang giá trị khác nhau, tiếp thu cải biến
các hình thức mới để chuyển tải nội dung văn hóa dân tộc. Thực chất bài
học lịch sử là ở chỗ, ông cha ta tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
trên tinh thần độc lập tự chủ cao, với lòng tự hào sâu sắc về những giá
trị nền tảng của con người Việt Nam. Chính vì thế, có thể xem văn hóa
Việt Nam là tổng thể những giá trị bền vững do cộng đồng các dân tộc
Việt Nam sáng tạo trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhờ nền tảng
văn hóa vững chắc và sức mạnh văn hóa to lớn đó mà dù phải chịu nhiều sự
đô hộ cùng âm mưu đồng hóa, dân tộc ta vẫn giữ vững và phát huy bản sắc
dân tộc của mình, chẳng những không bị đồng hóa, mà còn quật cường đứng
dậy giành lại độc lập dân tộc. Một nền văn hóa giàu sức sống của một
dân tộc kiên cường như vậy hẳn phải chứa đựng nhiều giá trị tinh hoa
mang đậm cốt cách, diện mạo, tâm hồn của con người, của cộng đồng dân
tộc đó.
Dân
tộc Việt Nam có một di sản các giá trị văn hóa tinh thần vô cùng phong
phú, thể hiện tâm hồn và cốt cách Việt Nam trong lối sống, lối ứng xử
với tự nhiên, ứng xử giữa con người với con người. Đó là tinh thần yêu
nước, lòng tự tôn dân tộc; tình thương yêu con người, tôn trọng cuộc
sống con người và đề cao nhân phẩm con người; tinh thần đoàn kết cộng
đồng, tương thân, tương ái, đức tính cần cù, tiết kiệm; tinh thần hiếu
học, ham học hỏi, ham hiểu biết; khả năng sáng tạo, linh hoạt, thích ứng
nhanh...
Trước
hết, bao trùm và thấm đượm trong toàn bộ văn hóa dân tộc ta là tình
thương yêu con người, tôn trọng cuộc sống con người và đề cao nhân phẩm
con người. Con người là cái vốn quý giá nhất của gia đình, dòng họ, xóm
làng, cộng đồng và đất nước. “Yếu tố con người - vì người” trở thành nền
tảng và giá trị nhân bản tối ưu của bản sắc văn hóa Việt Nam. Những
cuộc chống ngoại xâm của nhân dân ta đều không nằm ngoài mục đích bảo vệ
nền độc lập của dân tộc, quyền tự do của con người Việt Nam.
Chính
tình thương yêu con người đã nâng đỡ cho tinh thần đoàn kết cộng đồng.
Lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc đã chứng tỏ rằng, lịch sử của chúng ta
luôn là lịch sử của sự liên kết cộng đồng: Liên kết cộng đồng do phải
tiến hành các cuộc kháng chiến chống âm mưu đồng hóa của các triều đại
phong kiến phương Bắc. Liên kết cộng đồng do phải thực hiện một phương
thức sống đặc thù trong điều kiện của vùng địa lý nhiệt đới gió mùa,
nhiều bão lũ, thiên tai... Liên kết cộng đồng để tạo sức mạnh mở mang bờ
cõi. Và đặc biệt là liên kết cộng đồng trong lịch sử hiện đại để chống
lại chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ chủ quyền dân tộc, bảo
vệ nền văn hóa... Thật dễ hiểu tại sao ở người Việt, các giá trị cộng
đồng lại dễ được ưu tiên so với các giá trị khác. Có thể đồng tình được
với ý kiến của Giáo sư Phan Ngọc khi ông cho rằng, con người Việt Nam là
con người bổn phận: anh ta nhận thức chính mình phải thực hiện bổn phận
đối với Tổ quốc, gia đình và cộng đồng để được cộng đồng bảo đảm cho
thân phận và tôn trọng diện mạo anh ta (3). Đề cao các giá trị cộng
đồng, đặt cá nhân trong các quan hệ cộng đồng để nhìn nhận và ứng xử với
hoàn cảnh sao cho bảo toàn được vị thế của mình và không làm tổn hại
đến các quan hệ tốt đẹp với bên trong và bên ngoài cộng đồng, đó là
phương thức ứng xử tối ưu của các cộng đồng dân tộc nằm ở vị trí giao
lưu, gặp gỡ của các nền văn minh Đông - Tây. Do yêu cầu chống giặc ngoại
xâm, xây dựng những công trình thủy lợi đối với nền kinh tế nông nghiệp
mà dần dần Nhà nước Văn lang - Nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam
ra đời vào khoảng 700 năm trước công nguyên. Trên cơ sở đó, ý thức cộng
đồng dân tộc đã nảy nở tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái những
người anh hùng, những ông tổ của các nghề, những người có công với dân
với nước. Ý thức cộng đồng dân tộc được đặt trên một cơ sở chắc chắn -
sự tích con rồng cháu tiên, sự tích về bọc trăm trứng, nhằm khẳng định
một tổ tiên chung, một nguồn gốc chung của mọi người Việt Nam.
Việt
Nam do những điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử tương đối đặc
biệt, trên nền tảng phát triển về kinh tế - xã hội nhất định của các
làng Việt thời Đông Sơn, nước Văn Lang ra đời như một đáp ứng khách quan
nhu cầu liên kết của các làng xã trong công cuộc đắp đê trị thuỷ và
chống xâm lấn. Ngay từ buổi đầu làng với nước đã gắn với nhau trong mối
quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Cùng với những quan hệ cộng cư vốn có
trong từng làng, đã hình thành nên sự liên kết giữa các làng và vì
những lợi ích chung, mối quan hệ có tính bao trùm mà các nhà nghiên cứu
gọi là “siêu làng” cũng dần được xác lập. Quan hệ “siêu làng” vốn tự nó
đã hàm nghĩa liên kết, đoàn kết nhà/gia đình là cộng đồng gắn chặt với
quyền lợi trực tiếp hằng ngày của mỗi người. Quan hệ cộng đồng làng xóm
bắt nguồn từ sự gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn, hoàn cảnh lịch sử khắc
nghiệt đã khiến người Việt Nam sớm nhận ra rằng, việc làng không thể
tách rời với việc nước, muốn bảo vệ được làng giữ được nước phải có khối
đoàn kết toàn dân.
Ý
thức cộng đồng làng, một tiền đề hình thành văn hóa cộng đồng làng, một
ý thức riêng biệt xuất hiện trước cả ý thức cộng đồng dân tộc và có vai
trò đặc biệt tích cực hình thành thể chế dân chủ làng xã trước kia. Ý
thức cộng đồng làng, và cơ bản, thể hiện trên hầu khắp các lĩnh vực đời
sống làng xã, như một hệ phẩm chất của làng và con người trong làng. Có
vẻ nhận thấy rất rõ ý thức cộng đồng làng trong sản xuất, phân phối,
tiêu dùng kinh tế; trong chống thiên tai địch hoạ bảo vệ làng xã, trong
giữ gìn trật tự bảo vệ đời sống yên vui của làng, trong xây dựng văn
hóa, đạo đức, lối sống ở cộng đồng, gia đình, cá nhân.
Mặt
tích cực của văn hóa làng là ý thức cộng đồng, tinh thần tự quản và sự
đoàn kết trong khai hoang, lập làng, làm thủy lợi, chống ngoại xâm, bảo
tồn và phát triển di sản văn hóa làng. Đó là ý thức tạo lập và giữ gìn
khối quan hệ cộng đồng tốt đẹp, đoàn kết yêu thương, che chở, đùm bọc
nhau trong tình làng nghĩa xóm. Đó còn là lòng tự hào về vốn liếng văn
hóa của làng và sự đóng góp hết mình để bảo tồn và phát huy các hoạt
động, các giá trị văn hóa làng trong phạm vi làng và những phạm vi rộng
hơn ở tầm vĩ mô, văn hóa làng còn góp phần mình vào phát triển không chỉ
đời sống sinh hoạt của làng mà còn phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa
của cả cộng đồng, vùng, miền và đất nước. Thực tiễn đã cho thấy, sức
mạnh văn hóa liên làng sự nhân lên của văn hóa nhiều làng sẽ tạo động
lực lớn trong phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi cả nước. Văn hóa
làng giữ vai trò cơ sở của sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã
hội ở làng nói riêng, ở nông thôn nói chung hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Từ
ý niệm cố kết theo triết lý đại đồng phản ánh trong thần thoại và
truyền thuyết đã dẫn đến thực tiễn cố kết trong các cộng đồng dân tộc từ
thấp đến cao, từ địa bàn trung du nhỏ bé đến các địa danh được mở rộng
theo địa hình quốc gia. Trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam, ý thức
cố kết đã giữ một vai trò chính yếu: “Tứ Hải giai huynh đệ” và “gà cùng
một mẹ chớ hề đá nhau”, “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên
hòn núi cao”.
Trên
cơ sở khái niệm về văn hóa làng về cố kết cộng đồng có thể thấy, xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở chính là xây dựng văn hóa làng, một thực thể
một thiết chế xã hội quan trọng, theo hướng đi hai chiều, một chiều đưa
vào áp dụng vào bằng những mô hình, những phong trào xây dựng văn hóa
mới với chuẩn mực và tiêu chí chung; chiều khác là hình thức tác động
tạo điều kiện để thiết chế, di sản tiềm năng văn hóa của làng có điều
kiện nảy nở, bộc lộ, phát huy trên phạm vi rộng hơn.
Hiện
nay, cùng với công cuộc đổi mới đất nước tạo ra sự biến đổi sâu sắc về
các giá trị truyền thống. Giá trị liên kết cộng đồng trong xã hội đã có
những biến đổi về các mặt: biến đổi của giá trị cộng đồng gia đình, biến
đổi giá trị cộng đồng dòng họ, biến đổi giá trị đạo đức cá nhân theo
các xu hướng khác nhau. Theo xu hướng tích cực: trong hoạt động kinh tế,
ý thức cộng đồng vẫn được duy trì với các biểu hiện khác nhau. Trong
hoạt động tâm linh, tính cố kết cộng đồng qua những linh hoạt lễ hội vẫn
được duy trì, bên cạnh thoả mãn nhu cầu tâm linh thiêng liêng còn có ý
thức biết về cội nguồn, lòng tự hào với truyền thống của làng. Trong các
sinh hoạt tang ma, cưới hỏi, làm nhà, dựng cửa, ý thức cộng đồng cần
được đề cao. Nhưng hiện nay, giá trị cộng đồng làng có những biểu hiện
tiêu cực, không gian kiến thức của làng bị phá vỡ và thay đổi theo chiều
hướng đáng lo ngại. Con người trong nền kinh tế thị trường chỉ nghĩ đến
lợi ích của bản thân mình. Thái độ sống “sống chết mặc bay, tiền thầy
bỏ túi”, “khôn sống mống chết” trở thành một hiện tượng phổ biến. Chủ
nghĩa cá nhân phát triển theo hướng tiêu cực. Theo các nhà nghiên cứu,
tính liên kết cộng đồng còn tồn tại những hạn chế. Đó là vì quá đề cao
tính tập thể nên thủ tiêu tính cá nhân, tính cộng đồng dẫn đến thói quen
dựa dẫm ỷ lại tập thể, thói cào bằng đố kỵ không muốn ai hơn mình, tính
tư hữu, cục bộ. Những hạn chế này cần được khắc phục trong quá trình
phát triển làm sao đẩy mạnh truyền thống tốt đẹp của tính liên kết cộng
đồng như truyền thống tôn vinh những dòng họ, truyền thống đồng cam cộng
khổ trong làng xã, những truyền thống tốt đẹp trong nhân cách con người
Việt Nam như tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, tinh thần cộng
đồng biết ơn tổ tiên, uống nước nhớ nguồn, tôn trọng đạo đức, cần kiệm
giản dị, yêu nước yêu chuộng hòa bình, nhân đạo và lạc quan.
Giá
trị gia đình - dòng họ vẫn được duy trì, bảo lưu. Ý thức gắn bó huyết
thống do nhu cầu tình cảm, quyền lợi cần được nuôi dưỡng. Từ bao đời
nay, làng xã Việt Nam luôn là nơi cộng đồng dân cư sinh sống, gắn bó
chặt chẽ với nhau trong các quan hệ kinh tế, dòng tộc và văn hóa và
chính nơi đây góp phần gìn giữ và trao truyền những giá trị văn hóa Việt
Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác, ý thức cộng đồng làng không đồng
nhất với ý thức cộng đồng dân tộc, nhưng nó là một trong những nguồn gốc
của ý thức dân tộc. Trong trường hợp gặp tai họa xâm lược, vấn đề sinh
tồn của làng xã và của đất nước được đặt ra khẩn cấp như nước sôi lửa
bỏng thì ý thức làng và ý thức dân tộc là một. Lịch sử tất cả các cuộc
chống ngoại xâm của nước ta đều xây dựng trên cơ sở chiến tranh nhân
dân, thống nhất giữa làng xã và Nhà nước. Trong kháng chiến chống thực
dân Pháp, chống đế quốc Mỹ nhân dân ta thực hiện “mỗi người dân là một
chiến sỹ, mỗi làng là một pháo đài” tạo ra sức mạnh vô địch chiến thắng
mọi kẻ thù xâm lược. Cộng đồng làng xã chính là yếu tố quan trọng tạo
nên sức mạnh tập thể người Việt. Đây là nét đặc sắc của dân tộc Việt Nam
hiếm thấy ở các dân tộc khác trên thế giới. Rất nhiều nơi đặt ra “hương
ước” để duy trì và bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng này và lợi ích
của mỗi thành viên. Người xưa hay nói “phép vua thua lệ làng”, qua đó đủ
thấy sức mạnh của hương ước (hay lệ làng) vì sự phục tùng của cá nhân
đối với “lệ làng” còn hơn cả luật vua phép nước.
Truyền
thống liên kết cộng đồng đi liền với cuộc hành trình của dân tộc mà nhờ
đó dân ta vượt qua biết bao trở ngại, thử thách mỗi khi Tổ quốc bị lâm
nguy thì tinh thần liên kết cộng đồng biểu hiện nổi bật nhất. Đó là
trách nhiệm của cá nhân đối với cộng đồng, trách nhiệm của cộng đồng
thực hiện theo hướng cá nhân - gia đình - làng - nước. Quan hệ ứng xử
trong cộng đồng theo hướng đó trở thành chuẩn mực, đạo lý cao cả của dân
tộc.
Qua
gần 30 năm đổi mới, giá trị liên kết cộng đồng càng được củng cố và
phát huy trong nhiều chính sách kinh tế - xã hội, chủ trương chăm lo tổ
chức, xây dựng các sinh hoạt cộng đồng làng, xã, thôn, bản nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, giá trị cộng
đồng từng bước được nâng cao, thể hiện ở những thành tựu quan trọng
trong việc phát triển kinh tế - xã hội, phát huy dân chủ và sự sáng tạo
của nhân dân; kế thừa và phát huy được những truyền thống và giá trị văn
hóa tốt đẹp của dân tộc; vai trò, uy tín của tổ chức Đảng, chính quyền
được củng cố và nâng cao.
Như
thế, chính tinh thần vì con người, sự cố kết cộng đồng, nhân dân ta đã
xem yêu nước, tự tôn dân tộc là phẩm chất cao quý của mọi người Việt
Nam. Tinh thần yêu nước trở thành giá trị chủ đạo, xuyên suốt lịch sử
của dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước đó được gắn với ý chí tự lực, tự cường
của dân tộc trên cơ sở phát huy tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn
kết cá nhân - gia đình - làng - nước thành một thể thống nhất, trọng
nghĩa tình đạo lý, lòng nhân ái bao dung; sự cần cù, sáng tạo trong lao
động, tế nhị trong ứng xử... Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, giá trị yêu
nước là “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị”(4). “Tình
cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân,
của dân tộc Việt Nam”, “chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn
bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam
biểu lộ đầy đủ và tập trung nhất, hơn bất cứ ở chỗ nào khác. Yêu nước
trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam”(5), là sự
phát triển tập trung lên trình độ cao của giá trị liên kết cộng đồng;
yêu nước là thang bậc cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân
tộc, là sự tiếp nối của giá trị liên kết cộng đồng, thể hiện sức mạnh
dân tộc Việt Nam từ truyền thống hiện đại./.
-------------------------------------------
(1) Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang: Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.2, tr. 84
(2) C.Mác và Ph. Ăng-ghen: Hệ tư tưởng Đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 434
(3) Phan Ngọc: Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.41
(4) Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống, Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia tr.94
(5) Trần Văn Giàu: Sđd, tr 100 - 101
PGS.TS. Mai Hải Oanh
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)