Hệ giá trị văn hóa gắn bó mật thiết với
văn hóa chính trị quốc gia, tập quán kinh tế, lối ứng xử văn hóa trong
xã hội; lý tưởng sống, nhân sinh quan, thế giới quan của tầng lớp có vị
thế xã hội, đảm nhận chức năng dẫn đạo trong xã hội. Nó cũng liên quan
đến luân lý, đạo đức nhà nước và gia đình, mà như Hêghen từng quan niệm:
Nếu luân lý nhà nước, luân lý gia đình bị xuống cấp thì xã hội đang suy
thoái.
Hệ giá trị văn hóa có thể biến đổi do thời thế, xã hội thay đổi,
nhưng thời nào mà các tiêu chí tốt đẹp của một hệ giá trị cụ thể được
tôn trọng, làm lẽ sống của mọi người từ lãnh đạo đến công dân thường thì
chắc thời đó là thịnh trị. Ngược lại, nếu người ta thay các tiêu chí
tốt, đúng của hệ giá trị cũ bằng tiêu chí mới nhưng không khả dụng (chưa
nói là sai, không dẫn đạo xã hội) thì thời đó đang có vấn đề hoặc gặp
thách thức phải giải quyết sớm… Ví dụ tiêu chí cao thượng, trọng danh
dự, kỷ luật cao trong hệ giá trị văn hóa võ sĩ đạo - Samurai Nhật hiện
vẫn được nước Nhật, xã hội tôn sùng là một trong những kinh nghiệm cần
học tập trong việc duy trì các tiêu chí hay của hệ giá trị văn hóa cũ.
Một số tiêu chí của hệ giá trị văn hóa Nho giáo được Chủ tịch Hồ Chí
Minh lúc sinh thời rất ưa chuộng. Trong 5 tiêu chí của quân tử: Nhân,
Lễ, Nghĩa, Trí, Tín và 4 điều tâm niệm của kẻ sĩ: Trung, Hiếu, Tiết,
Nghĩa được Bác thu gọn thành Nhân, Trí, Dũng, Liêm và Bác nêu thành yêu
cầu rèn luyện của cán bộ. Điều đáng nói là Bác không thiên về kiểu “áp
dụng” máy móc, gò bó mà Bác thiên về hướng “Vận dụng” có tính chủ động,
chọn lọc và sáng tạo hơn.
Đã có rất nhiều học giả trong, ngoài
nước bàn về các vấn đề liên quan với hệ giá trị văn hóa Việt Nam. Nhà
văn hóa Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương từng nói
đến 7 đặc tính cơ bản của người Việt, mà chúng tôi cho là nên tham chiếu
để làm căn cứ để xây dựng các tiêu chí cho hệ giá trị văn hóa Việt. Đó
là, người Việt có: Sức ký ức (trí nhớ) tốt, thiên về nghệ thuật và trực
giác; Ham học, thích văn chương; Ít mộng tưởng (thiết thực); Sức làm
việc khó nhọc (cần cù) ở mức độ ít dân tộc bì kịp; Giỏi chịu đựng gian
khổ và hay nhẫn nhục; Chuộng hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hy sinh
vì đại nghĩa; Khả năng bắt chước, thích ứng và dung hòa rất tài. Còn sử
gia Trần Văn Giàu trong cuốn Giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam cũng
nêu lên 7 đặc tính lớn đặc thù cho người Việt Nam là: Yêu nước, cần cù,
anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa.
Nói đến Việt Nam nhiều người nhấn mạnh
ngay đến các giá trị xoay quanh việc lớn “Dựng nước và chống ngoại xâm”.
Hai việc đó luôn gắn bó với nhau suốt nhiều thế kỷ. Về địa chính trị ta
ở cạnh những láng giềng cả lớn và nhỏ với nhiều bối cảnh phức tạp, có
nước từng xâm lấn ta nhiều lần và gây khó khăn về chủ quyền. Về truyền
thống văn hóa ta có nhiều điểm sáng như yêu nước thương nòi, uyển
chuyển, nhưng cũng có nhiều hạn chế do phương thức sản xuất tiểu nông
chi phối và các lý do khác nên còn rơi rớt các biểu hiện: thích sĩ diện,
đố kị, ưa bình quân chủ nghĩa kiểu “xấu đều hơn tốt lỏi”, các mẹo vặt
cầu lợi trong ứng xử kiểu “gắp lửa bỏ tay người”, “qua cầu rút nhịp”… Về
kinh tế, do chiến tranh liên miên, người Việt không có truyền thống
trọng thương nên ta chưa thành công trong việc xây dựng được các mũi
nhọn kinh tế mạnh có thể chi viện cho văn hóa nói chung và hệ giá trị
văn hóa nói riêng.
Trên thực tế, do mấy chục năm đất nước ta trải qua
chiến tranh, mọi nhân tài, vật lực chủ yếu tập trung cho tiền tuyến để
giải phóng đất nước, nên việc xây dựng bài bản, chính thức về các tiêu
chí cho hệ giá trị văn hóa Việt Nam, đưa vào đời sống ở nước ta chưa
được đầu tư đúng mức. Sau chiến tranh, hơn 30 năm tiến hành công cuộc
Đổi mới, chúng ta thu được nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực, nhưng
nếu nhìn thẳng vào thực tế thì đất nước gặp không ít thách thức và khó
khăn, ở đây nếu chỉ xét về văn hóa và tiêu chí hệ giá trị văn hóa cũng
thấy nổi lên khá nhiều mặt tiêu cực đang được báo đài, xã hội quan tâm
mạnh mẽ. Nhiều vụ việc con người bị tha hóa, chạy theo lối sống buông
thả, hưởng thụ vô văn hóa; luân thường đạo lý bị xúc phạm; các biểu hiện
tham nhũng, chạy chức quyền, mua bằng cấp tràn lan… chính là văn hóa cơ
chế, hệ giá trị văn hóa không chuẩn mực, đáng báo động.
Vậy có người sẽ
hỏi: Các điều khoản luật pháp, Quy ước, dư luận báo chí và dư luận cộng
đồng có thay cho Tiêu chí của Hệ giá trị văn hóa không? Vì luật pháp có
thể chế tài, còn dư luận thì ai chẳng sợ mang tiếng xấu? Xin thưa: Chẳc
chắn là không thay thế được. Bởi vì chỉ khi con người tự giác, coi
trọng văn hóa, văn hóa và các giá trị văn hóa đã thấm sâu vào suy nghĩ,
hành xử thì họ mới tuân theo các tiêu chí giá trị đúng đắn một cách tự
nhiên, không ép buộc (có người có học vấn, bằng cấp cao, có người chức
lớn chưa hẳn là có văn hóa cao: ví dụ vua quan nhà Nguyễn thời Tự Đức
cắt đất hàng Pháp là không có văn hóa trọng danh dự, không yêu nước).
Trong các mục tiêu giáo dục có mục tiêu cung cấp tri thức, tạo nền tảng
văn hóa cho con người; góp phần đào tạo con người luôn quan tâm cộng
đồng, biết xây dựng chuẩn hệ giá trị văn hóa đúng đắn cũng vậy. Nhà khoa
học, nhà cải cách giáo dục Đức Hambold ngay từ thế kỷ XIX đã cho rằng:
Cần xây dựng Đại học - văn hóa với người thầy như là nhà văn hóa, khai
mở, truyền thụ để cho học trò trở thành người có văn hóa tự khắc họ sẽ
yêu nước, hành xử đúng đắn. Không nên quá quan trọng hóa môn Triết và
môn Luật (như thời trước đó) mà chú trọng môn văn học để con người hướng
tới cảm thụ văn hóa, bồi dưỡng tính nhân văn… Ngay thời phong kiến ở
phương Đông nói chung và nước ta nói riêng, trừ những kẻ thất phu, tiểu
nhân, còn ai cũng noi theo các tiêu chí: Uy vũ bất năng khuất; Phú quý
bất năng dâm; Bần tiện bất năng di. Và xã hội rất tôn sùng 5 tiêu chí
coi là điều thường nhật, chuyện “bình thường, tự nhiên” của xã hội, đó
là “Ngũ thường” (Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Đã là người nam nhi tử tế
thì “Giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha”. Ai cũng giữ nếp nhà, sống
ngay thẳng, dù gặp khó khăn: “Giấy rách phải giữ lấy lề”, giữ khí tiết
vì cho rằng: “Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng; Ngọc nát còn hơn giữ
ngói lành”. Dĩ nhiên là hạng hèn kém trong xã hội thì có triết lý khác
về hệ giá trị văn hóa, họ cho rằng: “Quân tử nhất ngôn là quân tử dại.
Quân tử nói đi nói lại là quân tử khôn” hoặc trong khi nhiều kẻ trí giả
mong học hành mở mang trí tuệ để “giúp nước cứu đời”, chú ý mọi nơi, mọi
lúc rèn mình suốt quá trình “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”
thì rất đông sĩ tử thời xưa tâm niệm Học để đỗ đạt “làm quan để có mũ
cao áo dài, vinh thân, phì gia, thoát ly các hoạt động thực tiễn; coi
nhẹ kinh doanh, công thương, sản xuất lưu thông….”(1)
Ngày nay, đất nước ta đã thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ, đang từng bước tham gia hội nhập quốc tế. Bối cảnh quốc
tế đang có nhiều biến chuyển quan trọng: Toàn cầu hóa kinh tế đã lan
sang các lĩnh vực khác, trong đó có văn hóa, nhiều hiện tượng như giao
lưu hợp tác văn hóa; tiếp biến, hỗn dung văn hóa; xâm lăng văn hóa;
chiếm đoạt thị trường văn hóa; đồng hóa văn hóa; giao thoa văn hóa… xảy
ra phức tạp, đa dạng, ảnh hưởng đến sự phát triển chính trị, kinh tế,
văn hóa- xã hội các quốc gia, khu vực. Trong đó “Quá trình giao thoa văn
hóa là một quá trình học tập và tiếp biến các giá trị văn hóa. Mỗi nền
văn hóa đều những có giá trị đặc sắc riêng. Với các nước nhỏ và chậm
phát triển, muốn theo kịp trào lưu phát triển của thời đại để không tụt
hậu, không có một con đường nào khác là phải sử dụng tối ưu phép lợi thế
của nước đi sau”(2).
Là nước đi sau, chúng ta hiện đi theo
con đường kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và kinh tế thị
trường có nhiều mặt tích cực nhưng rất nhiều tiêu cực ảnh hưởng tới giá
trị văn hóa nói riêng. Làm thế nào để khắc phục được các tiêu cực đó?
Làm thế nào để người lãnh đạo và người dân nước ta đồng thuận, niềm tin
ngày một củng cố? Làm thế nào để mọi người cùng thống nhất cơ bản, tự
giác hướng theo những giá trị văn hóa tốt đẹp, khả thi, bền vững, hợp
quy luật? Về xây dựng con người mới cho xã hội hiện đại, Nghị quyết TƯ 5
(BCH khóa VIII) của Đảng và nhiều văn bản khác đã đề cập khá rõ, nhưng
việc quy định ra hệ giá trị văn hóa chuẩn để cả xã hội noi theo thì các
ngành chức năng mới dừng ở một số Hội thảo, diễn đàn.
Do vậy, trước hết về mặt học thuật cần
đặt vấn đề rõ ràng việc Xây dựng hệ giá trị văn hóa mới. Đó là việc làm
cần thiết, mang tính thời sự.
Bàn về xây dựng hệ giá trị văn hóa, TS.
Giáp Văn Dương cho rằng: “Cái mới, chưa chắc đã là cái tiến bộ. Và cái
cũ, cũng chưa hẳn là cái lạc hậu hoàn toàn. Chưa kể, xã hội có bao nhiêu
người thì có bấy nhiêu thang giá trị khác nhau”; “Sử dụng những giá
trị phổ quát làm thang giá trị chủ đạo sẽ giảm được sự phức tạp trong
quá trình định chuẩn và tránh được những hậu quả khôn lường do chọn phải
những thang giá trị lạc hậu làm chuẩn cho xã hội"(3).
Cần mạnh dạn nhìn thẳng vấn đề cốt lõi của mọi xã hội là: có một thứ
tinh thân thần văn hóa được dùng với từ ngữ khác nhau, chi phối hệ giá
trị văn hóa mà xã hội đó phải lựa chọn. Ví dụ ở phương Tây thời phong
kiến và thời tư bản (ngày nay một số nước vẫn nhìn nhận như trước), họ
nói đến tinh thần quý tộc, bình dân và lưu manh, trong đó tinh thần quý
tộc (Với phẩm chất chính là đạo nghĩa, thành tín, trách nhiệm. Gọi
là quý tộc không phải theo nghĩa được phong tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam;
có nhiều của cải, nhiều quyền lực, mà là vì họ có một tinh thần cao
quý, sử sách xưa nay gọi đó là tinh thần quý tộc) được xã hội coi là
tinh thần dẫn đường cho xã hội.
Một số nước phương Đông chịu ảnh hưởng
phần tích cực của Nho giáo, chủ yếu tôn trọng tinh thần của “trượng phu,
quân tử” luôn phò chính diệt tà, ái quốc, vị dân, trung hiếu lễ nghĩa,
liêm chính…Thời hiện đại họ bổ sung các giá trị về tính kỷ luật, cộng
sinh, nhân ái…v.v để phù hợp thực tại. Còn những nước trải qua đấu tranh
giải phóng dân tộc, đi lên Xã hội chủ nghĩa, đã có những thời gian lấy
giá trị dám xả thân vì độc lập dân tộc; chịu đựng gian nguy, khó khăn vì
dân, vì chính đảng cách mạng… làm thước đo đảng viên và hệ quy chiếu
giá trị văn hóa rộng ra cho xã hội.
Nhưng đến thế kỷ XXI này, khi đời
sống xã hội có nhiều biến đổi phức tạp, các mạng khoa học kỹ thuật tác
động mạnh đến xã hội; con người, văn hóa, thiên nhiên, thế giới…ở trong
mối quan hệ đan chéo, ảnh hưởng lẫn nhau mạnh hơn, nhanh hơn ở các thế
kỷ trước rất nhiều, thì mọi quốc gia đều phải xem xét việc luôn hoàn
thiện hệ giá trị văn hóa (dù ít hoặc nhiều) để giữ cho xã hội lành mạnh,
phát triển đúng hướng và nước ta không phải là ngoại lệ.
Các hoạt động
bề nổi rộng lớn như xây dựng Gia đình văn hóa, tiêu chuẩn Nông thôn mới,
công nhận Di tích văn hóa… là cần thiết nhưng cần có các bước đi tiếp cụ
thể, định lượng rõ và mang tính chiến lược lâu dài, bởi phấn đấu đạt
các chuẩn đó rồi phải gắn với các mục tiêu dài hơi, bền vững nếu không
thì chỉ có giá trị ở một thời kỳ ngắn mà lâu dài chưa thể hiện đầy đủ
hiệu quả thực tế. Đó là chưa kể các Di tích đạt chuẩn được UNESCO công
nhận, nhưng không phải vĩnh viễn, nếu không phát huy được hiệu quả thì
danh hiệu đó đã đúng với mong muốn của xã hội chưa?
Theo tôi có thể xây dựng một bộ tiêu chí
của hệ giá trị vừa kế thừa được các tiêu chí trước đây (đã tồn tại và
có tác dụng tích cực), vừa phù hợp điều kiện đất nước hôm nay và phù hợp
với xu thế của thế giới, thời đại lại ngắn gọn, dễ nhớ.
Thứ nhất, trước hết phải có bộ tiêu chí hệ giá trị văn hóa phổ quát chung
cho toàn xã hội. Vì là phổ quát, nên có thể lấy tiêu chí mà nhiều nước
phương Đông, trong đó có nước ta mọi công dân hàng ngàn năm đã noi theo
và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng rất tâm đắc. Đó là: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng, Liêm, Khiêm; Kết hợp cùng các tiêu chí khác hỗ trợ như: Tâm chính, ý thành, chí kiên, sự cẩn, lịch thiệp, nhân văn, dân chủ, cao thượng, thành tín, đạo nghĩa, trách nhiệm.
Thứ hai, Đối với phái nữ thì các tiêu chí là: Công, dung, ngôn, hạnh, tinh tế, duyên dáng, nhu thuận, đảm đang, bình đẳng
Thứ ba, Đối với những người có vị trí lãnh đạo thì ngoài hệ tiêu chí phổ quát cần thêm: Tâm sáng, tầm xa, tuệ sáng, tài cao, vì dân vì nước, trình độ văn hóa quốc tế; Với tiêu chí đặc thù là: Lo trước lo thiên hạ, vui sau cái vui thiên hạ.
Tóm lại, việc nghiên cứu để xây dựng
tiêu chí hệ giá trị văn hóa Việt Nam cần được thúc đẩy mạnh mẽ và sau
khi được cơ quan chức năng thống nhất, ban hành rồi phải có biện pháp
quảng bá trong, ngoài nước để mọi người Việt Nam hưởng ứng, thực hiện.
Phải coi đây là việc làm của mọi ban ngành, của cả hệ thống chính trị,
làm sao để dần dần, mọi thành viên xã hội noi theo, coi là tiêu chí đánh
giá đúng sai, thiện ác, hay dở, tốt xấu, giỏi kém của mỗi cá nhân và
thấm sâu thành nhận thức thành tư duy, hành động tự giác của các công
dân.
Nếu làm đúng, bài bản và lâu dài thì quá trình này sẽ có tác dụng
góp phần cho việc triển khai các Nghị quyết của Đảng, chính sách Nhà
nước và tạo sự đồng thuận xã hội, thúc đẩy nền văn hóa Việt Nam phát
triển, quốc gia thịnh vượng, mọi công dân hành xử tích cực, hình ảnh đất
nước cùng con người Việt Nam ngày càng tốt đẹp, mọi người Việt Nam luôn
cố kết không phân tâm để luôn hướng đến chân- thiện- mỹ và các giá trị
chuẩn khác, bảo vệ sự trường tồn với quốc gia, dân tộc.
Đồng thời phải
có những chiến lược hỗ trợ tích cực, cụ thể để hệ giá trị được xã hội
nhanh chóng chấp nhận. Đó là ngoài những biện pháp hành chính, quảng bá
của phương tiện đại chúng nên vận dụng các sản phẩm văn học, điện ảnh,
âm nhạc (những món ăn tinh thần quan trọng, có tính sáng tạo gắn với
chân thiện mỹ cần thiết với mọi xã hội). Văn học khuyên con người nên
sống như thế nào, vì thế theo tôi trước hết cần “đặt hàng” cho văn học
nhiệm vụ xây dựng những hình tượng hình mẫu đời sống có chất liệu từ
những danh nhân như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Đặng Dung, Đào Duy Từ,
Nguyễn Du, Nguyễn Trường Tộ…và tiếp theo là dùng điện ảnh để khắc họa
thành tấm gương thấm vào tâm khảm mọi người./.
__________________________________________
(1) Lê Thanh Bình: Một số vấn đề Quản lý nhà nước Kinh tế, văn hóa, giáo dục trên thế giới và Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2009, tr. 340.
(2) Lê Thanh Bình (Chủ biên): Giao thoa văn hóa và chính sách ngoại giao văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2012; tr. 45- 46.
(3) Giáp Văn Dương, Tạp chí Tia Sáng 25/05/2015.
PGS. TS. Lê Thanh Bình
(Nguồn: Báo Văn nghệ)