Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước”
Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người.
(Chế Lan Viên - Người đi tìm hình của nước)
Chế
Lan Viên đã viết những vần thơ thật đẹp, giàu hình tượng, giàu suy ngẫm
về Hồ Chí Minh như thế. Người đi tìm hình của nước, tìm lịch sử, tương
lai và những định hình đầy bản sắc của dân tộc, ấy là Hồ Chí Minh. Cuộc
đời Bác là minh chứng cho những gì chúng ta đang nói tới ở đây - một tầm
cao tư tưởng, một đạo đức sáng ngời, một con người vĩ đại. Tư tưởng và
đạo đức của Hồ Chí Minh chính là chân lí và sự thật trên con đường đi
tới của cách mạng Việt Nam. Bởi thế, việc gìn giữ và phát huy tư tưởng,
đạo đức của Hồ Chí Minh đồng nghĩa với việc bảo vệ chân lí và sự thật
trong di sản tinh thần của dân tộc.
Tư tưởng không đến từ hư vô siêu
hình. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết tinh hình thành trong suốt cuộc đời
của Bác, từ thơ ấu ở làng Sen đến những chân trời Âu - Mĩ - Phi xa xôi,
từ phương Đông tới phương Tây, từ truyền thống đến hiện đại. Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX nêu định nghĩa: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
văn hoá nhân loại” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 83).
Có
thể nói, định nghĩa trên đã thâu tóm được những vấn đề vừa cụ thể vừa bao
quát về tư tưởng của Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người, về căn bản được
hình dung trên một số phương diện như: giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh của
nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; quốc phòng toàn dân, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phát triển kinh tế và văn hóa, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; đạo đức cách
mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; chăm lo bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng
viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân
dân (Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 22).
Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một di sản vô giá, là kim chỉ nam cho cách mạng
Việt Nam, là tinh thần và lương tri của toàn dân tộc trong thời hiện đại
và cũng là hành trang để dân tộc đi tới tương lai.
Tuy nhiên, trong bối
cảnh hết sức phức tạp của thế giới và khu vực, các thế lực thù địch
không ngừng chống phá, xuyên tạc, phủ nhận giá trị tư tưởng, đạo đức Hồ
Chí Minh, hơn lúc nào hết, việc ý thức rõ giá trị chân lí và sự thật
trong tư tưởng của Người càng phải được nâng cao, kết hợp với việc đấu
tranh làm thất bại âm mưu của kẻ thù.
Trên mặt trận tư tưởng, văn học
nghệ thuật là một công cụ, một khí giới và mỗi văn nghệ sĩ là một chiến
sĩ - như lời Bác từng nói, đã tham gia tích cực vào việc bảo vệ tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại âm mưu
của các thế lực thù địch. Một trong những biểu hiện cụ thể, rõ ràng nhất
chính là việc xuất hiện ngày càng nhiều tác phẩm nghệ thuật ca ngợi,
tôn vinh vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Nhìn lại, trong văn học, hình
tượng Bác Hồ với tư tưởng và đạo đức ngời sáng luôn là đề tài hấp dẫn.
Chính điều đó đã đem lại sức mạnh trong cuộc đấu tranh với các luận điệu
xuyên tạc, bịa đặt, phủ nhận giá trị tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh.
Nghĩ về Bác trong những ngày gian lao, khó nhọc gây dựng chiến khu cách
mạng, tác giả Cao Xuân Thái viết: Giữa lán nhỏ Nà Nưa, trong hang sâu Pác Bó/ Rừng chiến khu buổi đầu gian khó/ Cháo bẹ, rau măng... tóc Bác sớm bạc rồi
(Ngọn lửa Bác nhen). Lời thơ giản dị mà giàu cảm xúc, chất chứa những
tình cảm dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân. Gợi lại bài thơ Tức cảnh Pác Bó
của Bác, tác giả hình dung ra những khó khăn mà Người phải nếm trải, từ
đó, một nỗi niềm thương yêu, kính trọng dâng lên khi thấy mái đầu tóc
bạc của Bác, vì dân, vì nước, vì nhiệm vụ cách mạng gian khó mà cao cả.
Từ ngọn lửa nhỏ trong hang đá lạnh Bác nhen, sau chín năm kháng chiến
trường kì đã thành ngọn lửa vĩ đại của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Ngọn
lửa bập bùng cháy mãi không thôi/ In hình Bác những đêm dài thao
thức/…/ Ngọn lửa Bác thành lá cờ chói đỏ/ Cắm giữa Điện Biên chấn động
địa cầu (Ngọn lửa Bác nhen - Cao Xuân Thái).
Cũng với cảm xúc chân
thành, giản dị ấy, hiểu được tấm lòng lãnh tụ, Ngọc Bái đã viết trong
trường ca Vầng trăng và cánh rừng: Già Thu/ trầm ngâm/ bàn đá/ viết
những lời hiệu triệu/ bằng thơ/ bằng nỗi đau/ bằng nỗi cực nhọc của
người dân/ bằng lịch sử cha ông thấm vào đất. Nghĩ về Bác, viết về
Bác bằng trái tim và lòng tôn kính vô hạn, đặt cuộc đời và sự nghiệp của
Người trong lịch sử vinh quang của dân tộc, mới hay, Bác là hiện thân
của chân lí, lẽ phải và sự thật. Đó là chân lí của độc lập, tự do, thống
nhất - chân lí ngàn năm mà dân tộc đã dày công vun đắp, gìn giữ. Hồ Chí
Minh đã kế thừa xuất sắc và làm sáng thêm những trang sử hào hùng từ
Đinh - Lý - Trần - Lê, làm nên thời đại Hồ Chí Minh. Và, gốc rễ của
thành công, để lãnh đạo toàn dân làm cách mạng, đi đến thắng lợi cuối
cùng, mọi hành động đều phải hướng đến nhân dân, tập hợp được ý chí,
lòng tin của dân. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấu tỏ điều đó, và xem như
một đòi hỏi cao nhất của người cán bộ cách mạng - được dân yêu, dân tin,
dân quý. Ngọc Bái đã có những cảm nhận khá chân thành về phẩm tính này ở
Bác: Anh đã nghe người dân kể Cụ Hồ vui đùa cùng trẻ nhỏ/ cuốc đất
bắt sâu/ hát kết đoàn đêm trăng cùng dân bản/ vui reo ca dân cày có
ruộng/ vui reo ca ai cũng được học hành/ rét cùng hơ tay trên bếp lửa/
chăm từng bữa ăn, giấc ngủ chiến sĩ/ Và anh nghĩ/ lãnh tụ là vậy/ làm gì
dân không tin/ làm gì kháng chiến chẳng thắng lợi (Vầng trăng và cánh rừng).
Sự
dịch chuyển của cảm hứng nghệ thuật, thi pháp, đề tài, chủ đề… trong
văn học nghệ thuật sau 1975 đã hướng các văn nghệ sĩ vào khía cạnh đời
tư, thường nhật. Xu hướng này là tất yếu sau một thời gian dài chúng ta
dành nhiều sự quan tâm cho những vấn đề lớn lao, đại chúng. Cũng như
vậy, hình tượng Bác Hồ trong văn học đương đại được soi chiếu ở góc nhìn
đời tư, bình dị mà gần gũi hơn. Tác giả Sơn Tùng với Búp sen xanh và
Bông sen vàng đã không chỉ khắc họa những khía cạnh vĩ đại, cao cả của
Bác mà còn làm bật nổi những chi tiết đời thường từ cậu bé Nguyễn Sinh
Côn khi còn sống ở làng Sen. Đó là một cậu bé như bao đứa trẻ khác, cũng
nũng nịu mẹ cha, cũng ngỗ nghịch ham chơi… Lớn lên, Nguyễn Sinh Côn -
Nguyễn Tất Thành cũng có những rung động tình yêu đầu đời (cùng Út Huệ),
nhưng đành phải kìm nén, gác lại cho những dự định xa hơn, lớn lao hơn
để đưa dân tộc thoát khỏi cảnh bần cùng, nô lệ.
Bổ sung khía cạnh đời
thường tạo nên nhận thức mới về Bác, một con người bình dị mà vĩ đại,
đời thường mà phi thường. Bác không phải là thánh thần ở ngôi cao thăm
thẳm hư vô, Bác là con người sống giữa quần chúng nhân dân, yêu thương
và lo lắng cho dân, cho nước. Hơn ai hết, và trước hết, Hồ Chí Minh nếm
trải đủ đầy phận người khó nhọc, cần lao, mất tự do, bị đọa đầy khổ ải.
Vì thế, hành trình ra đi tìm đường cứu nước và trở về lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đi đến thắng lợi là hành trình của một con người đi tìm chân
lí, sự thật cho tất cả mọi người: Kìa mặt trời Nga bừng chói ở
phương Đông/ Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt/ Người cay đắng đã chia
phần hạnh phúc/ Sao vàng bay theo liềm búa công nông/ Luận cương đến Bác
Hồ. Và Người đã khóc/ Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin/ Bốn bức tường im
nghe Bác lật từng trang sách gấp/ Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong
tin/ Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc/ “Cơm áo là đây! Hạnh
phúc đây rồi!” (Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên).
Nếu
Búp sen xanh, Bông sen vàng viết về quãng đời ấu thơ nơi làng Sen của
Bác thì Cha và con (Hồ Phương) viết về cuộc đời của Bác ở giai đoạn vị
thành niên. Dù đã lớn hơn, nhưng vẫn được gọi bằng cái tên thân thuộc -
Côn, trong tác phẩm Cha và con, quãng đời này của Bác vẫn lưu dấu những
ấn tượng về một con người rất đỗi đời thường. Như Hồ Phương bộc bạch,
ông không muốn xây dựng hình tượng Hồ Chí Minh là một thánh nhân từ tấm
bé. Trên bìa cuốn sách ông viết: “… đây hoàn toàn không phải là “truyện
kí danh nhân” hoặc “tiểu sử danh nhân”, mà đây là một cuốn tiểu thuyết
về Bác Hồ”. Dĩ nhiên, tư tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh là quá trình hun
đúc, tôi rèn từ tấm bé, nhưng rõ ràng cách tiếp cận đời thường đã đem
đến sự gần gũi cho hình tượng Hồ Chí Minh.
PGS.TS. Bùi Thanh Truyền
trong bài viết Hình tượng Bác Hồ trong một số tiểu thuyết tiêu biểu cho thiếu nhi sau 1975
đã đưa ra nhận xét: “Không chỉ hướng tới những vấn đề có ý nghĩa lớn
lao như lịch sử, cộng đồng, người viết còn quan tâm nhiều hơn đến từng
biểu hiện chân thực, sinh động của thế giới nội tâm, chú trọng cả những
cái bình thường lẫn phi thường trong nhân cách của Bác thuở thiếu thời.
Chính quan niệm con người đời thường - thế tục đã góp phần đắc lực để
đổi mới thi pháp, mang lại chất văn xuôi - một phẩm chất tiêu biểu của
truyện đương đại, tạo ra sự cộng hưởng giữa chức năng giáo dục và chức
năng thẩm mĩ của văn học dành cho trẻ em hôm nay. Sức hấp dẫn của các
tiểu thuyết này không chỉ là do bút pháp phác họa hình tượng theo lối tả
thực cổ điển hay dày công tạo dựng một cốt truyện chỉn chu, giàu kịch
tính mà còn là vì chúng đã lí giải một cách thuyết phục mối quan hệ giữa
cội nguồn truyền thống với sự hình thành bản lĩnh, nhân cách, vẻ đẹp
tâm hồn Bác ngay từ thời thơ trẻ; nhờ thế đã tạo nên những rung động sâu
xa, bền vững nơi bạn đọc”.
Tác phẩm tiểu thuyết có lợi thế về dung
lượng và đặc tính thể loại giúp cho việc tiếp cận hình tượng Bác Hồ đa
dạng, sinh động hơn, tạo ra sự thân thuộc, gần gũi với đông đảo bạn đọc -
nhất là những thế hệ đi sau, chỉ hình dung về Bác thông qua tác phẩm
văn học nghệ thuật và lịch sử… Cuộc đời Hồ Chí Minh, tư tưởng, đạo đức
của Người là kết tinh của hành trình sống và cống hiến hết mình, trọn
vẹn cho đất nước. Đó không phải điều gì siêu hình, có sẵn của một thánh
nhân từ lúc lọt lòng. Chân lí và sự thật nào nếu không phải là một con
người sinh ra, lớn lên mang đầy đủ, trọn vẹn tinh thần Việt Nam, đưa
Việt Nam tiến ra thế giới bằng ý chí và tinh thần độc lập, tự chủ. Cuộc
đời của Hồ Chí Minh từ khi sinh ra và lớn lên, dấn thân bốn biển năm
châu tìm đường cứu nước là hành trình của chân lí và đạo đức. Trong một
số tác phẩm văn học khác như Mặt trời Pác Bó, Trông vời cố quốc, Giải phóng
(Hoàng Quảng Uyên)… hình tượng Hồ Chí Minh lại càng ngời sáng với vẻ
đẹp vừa cao cả, vừa bình dị, vừa lồng lộng gió bốn phương vừa thấm đẫm
tinh thần dân tộc, là hiện thân của chân lí thời đại. TS. Nguyễn Văn
Hùng sau khi đọc các tiểu thuyết này đã có nhận định khá xác đáng: “Mặt trời Pác Bó và Giải phóng
là hai chặng đường quan trọng khi Bác Hồ trở về nước lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Lấy bối cảnh là chiến khu Việt Bắc, Mặt trời Pác Bó
đã tái hiện những hoạt động của Người trong những năm 1941-1945, giai
đoạn chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa. Giải phóng lại khắc họa những sự
kiện trọng đại của dân tộc: những ngày Cách mạng tháng Tám, thành lập
Chính phủ lâm thời tại Tân Trào, rồi cuộc kháng chiến thần thánh kéo dài
chín năm. Cùng với Trái tim quả đất của Sơn Tùng, Mặt trời Pác Bó và Giải phóng
của Hoàng Quảng Uyên đã xây dựng thành công hình tượng Hồ Chí Minh -
bậc đại trí đại dũng, nhà lãnh đạo tài ba, nhà quân sự uyên thâm thấu
suốt truyền thống lịch sử và cũng là một nhà văn hoá tiên phong đạo cốt
giữa trận tiền” (Nguyễn Văn Hùng, Hình tượng Bác Hồ trong văn xuôi Việt Nam đương đại).
Văn
chương viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh có thể được xem như một dòng văn học
với di sản khá đồ sộ và không ngừng được bồi đắp. Cùng với những sáng
tác giai đoạn trước 1975 của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Minh Huệ, Thanh Tịnh,
Xuân Diệu, Huy Cận, Thanh Hải, Trần Đăng Khoa, sau 1975, các tác phẩm
của Sơn Tùng, Hồ Phương, Hoàng Quảng Uyên, Nguyễn Thế Quang, Ngọc Bái…
đã tiếp nối vào truyền thống tôn vinh giá trị tư tưởng, đạo đức, nhân
cách của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng, đạo đức của Bác là chân lí và đạo đức
của dân tộc, của nhân loại tiến bộ. Trước những âm mưu xuyên tạc, phủ
nhận giá trị tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, văn chương nghệ thuật đã lên
tiếng theo cách riêng của mình. Con đường của văn chương khác với lịch
sử, khoa học, tuy nhiên, mục đích của văn chương vẫn là làm sáng lên
những giá trị vĩ đại của cuộc đời Hồ Chí Minh, nhằm bồi đắp thêm lòng
kính yêu đối với lãnh tụ đồng thời phản bác các luận điệu sai trái của
kẻ thù. Chính trị của nghệ thuật chính là ở chỗ bằng những giá trị mĩ
học, bằng các phương thức nghệ thuật đem đến cho con người nhận thức,
trải nghiệm thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp, cái giá trị đối với đời sống
của họ.
Chính vì thế, song hành cùng các hệ thống giá trị khác, văn học
nghệ thuật với hình tượng Bác Hồ đã trở thành một hoạt lực chính trị
mạnh mẽ trên mặt trận tư tưởng. Người đọc sẽ nhận ra, ở Hồ Chí Minh, một
cuộc đời cao cả hội tụ chân lí, đạo đức của nhân loại tiến bộ. Ta chợt
nhớ những câu thơ xúc động mà đầy tự hào của Tố Hữu: Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn/ Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi/ Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn (Bác ơi!)./.
Đặng Thiếu Quân
(Nguồn: Tạp chí VNQĐ)