Những năm gần đây, "hậu hiện đại" là một khái
niệm được một số tác giả sử dụng trong nhận xét về giá trị của một số
tác phẩm và sự kiện - hiện tượng trong đời sống văn học - nghệ thuật
nước nhà.
Tuy nhiên, điều đó có thật sự thích hợp hay không, hay sẽ đẩy
tới "nguy cơ làm rối loạn hệ thống lý luận văn nghệ, rối loạn các giá
trị đã được thiết lập của chủ nghĩa hiện đại, rối loạn các tiêu chí đánh
giá tác phẩm văn học đương đại, rối loạn các tiêu chí tiếp nhận văn học
- nghệ thuật của người thưởng ngoạn" như phân tích dưới đây của PGS, TS
Nguyễn Văn Dân?
Hầu hết các cuốn từ điển ở trong và ngoài nước
đều định nghĩa "hiện đại" là một thuộc tính của các hiện tượng, sự vật
thuộc thời hiện tại hoặc đương đại. Ngoài nghĩa chung này, hiện đại còn
được dùng để chỉ một giai đoạn lịch sử cụ thể. Thí dụ trong sử học
phương Tây, người ta coi giai đoạn từ năm 1453 - năm đánh dấu sự sụp đổ
của Ðế quốc La Mã và cũng là năm kết thúc thời trung đại - đến cuối thế
kỷ 18, là giai đoạn của thời hiện đại. Tuy nhiên, có lẽ đây là quan điểm
của các nhà viết sử ở thế kỷ 19, còn gần đây có ý kiến cho rằng thời
hiện đại được tính từ đầu chiến tranh thế giới thứ nhất - năm 1914 đến
nay. Và dường như quan điểm này được nhiều người hưởng ứng hơn. Còn về
thuật ngữ "chủ nghĩa hiện đại", thì nhìn chung trong sách báo trên thế
giới người ta thường dùng nó để chỉ một phong trào đổi mới văn học -
nghệ thuật diễn ra chủ yếu ở phương Tây (châu Âu và châu Mỹ) trên một
phạm vi rộng lớn trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ 19 đến nửa đầu
thế kỷ 20; nó "nổi loạn" chống lại các giá trị bảo thủ của chủ nghĩa
hiện thực và diễn ra trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật tạo hình, âm
nhạc, phim ảnh, kiến trúc... Trong tinh thần đó, thuật ngữ "chủ nghĩa
hiện đại" trong văn học - nghệ thuật đồng nghĩa với thuật ngữ "nghệ
thuật hiện đại". Nó không được dùng để chỉ một chủ nghĩa duy nhất, một
trào lưu duy nhất hay một trường phái duy nhất, mà được dùng để chỉ cả
một phong trào bao gồm nhiều trào lưu, trường phái, cả một giai đoạn với
nhiều chủ nghĩa khác nhau, được gọi là các chủ nghĩa hiện đại. Chính vì
vậy mà các nhà phê bình, các văn nghệ sĩ sống cùng thời với các chủ
nghĩa đó thường chỉ gọi chúng đơn giản là "trường phái hiện đại". Nhìn
chung, khi nói đến nghệ thuật hiện đại, người ta có thể đơn giản gọi nó
là "chủ nghĩa hiện đại". Hay nói một cách khác, khái niệm "modernism"
trong tiếng Anh cần phải được hiểu là "nghệ thuật hiện đại" chứ không
chỉ đơn thuần là "chủ nghĩa hiện đại".
Nhìn chung, trong lịch sử
văn học - nghệ thuật, các trào lưu hiện đại chủ nghĩa xuất hiện từ đầu
thế kỷ 20 đã được coi là một cuộc cách mạng trong văn học - nghệ thuật,
thường được gọi là "phong trào nghệ thuật tiên phong của thế kỷ 20".
Phong trào đó bao gồm các trào lưu diễn ra gần như đồng thời: chủ nghĩa
dã thú, chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa lập thể, chủ
nghĩa Ðađa, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa trừu tượng, phong cách quốc
tế trong kiến trúc... Giai đoạn từ đó cho đến nay được gọi là giai đoạn
của nghệ thuật hiện đại. Cũng từ đó, bộ mặt văn học - nghệ thuật thế
giới đã trở nên vô cùng phong phú, đa dạng. Góp phần làm nên bộ mặt
phong phú, đa dạng đó có sự tác động tích cực của các trào lưu nghệ
thuật hiện đại chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong số các trào lưu hiện đại đó
cũng có những biểu hiện cực đoan gây tác động tiêu cực đến văn học -
nghệ thuật thế giới sau này.
Ở Việt Nam, từ trước đến nay, các
thành tựu văn học nghệ thuật hiện đại của thế giới cũng đã được giới
thiệu. Nhưng nhìn chung, việc đánh giá các trào lưu hiện đại chủ nghĩa
vẫn chưa có sự nhất quán và thỏa đáng. Trước thời kỳ Ðổi mới, các trào
lưu hiện đại chủ nghĩa chưa được đánh giá đúng mức, điều này một phần do
ảnh hưởng của chủ nghĩa giáo điều. Sau ngày đất nước thống nhất, chúng
ta bắt đầu giới thiệu những quan điểm và nhận định mang tính khách quan
hơn. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, sự công nhận dành cho nghệ thuật hiện
đại vẫn chưa được thực hiện một cách triệt để. Và hạn chế trên đây chỉ
được khắc phục một cách cơ bản khi chúng ta thực hiện công cuộc Ðổi mới
đất nước, bắt đầu từ năm 1986. Tuy nhiên, đó vẫn là một sự ghi nhận có
điều kiện, vì thế đến đây lại xuất hiện một hạn chế khác: Ðó là việc
giới thiệu thường thiên về sao chép các cuốn sách của tác giả phương
Tây, chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu sơ lược, thiếu một cái nhìn am
hiểu của người có chuyên môn, chính vì thế mà giá trị khoa học của chúng
rất bị hạn chế, và tác động của chúng đối với xã hội cũng không đáng
kể. Việc các cuốn sách như vậy đã nằm im trong thư viện không có người
đọc cũng chứng tỏ một điều là lâu nay các trào lưu hiện đại chủ nghĩa đã
phần nào bị lãng quên ở nước ta. Ðặc biệt là trong giới trẻ đang có sự
hẫng hụt về chủ nghĩa hiện đại. Nhiều người trong giới nghiên cứu văn
nghệ không biết chủ nghĩa hiện đại có bao nhiêu trào lưu và những tác
giả tiêu biểu của chúng là ai. Ðến khi gần đây thấy có người nói đến hậu
hiện đại, thế là người ta chỉ biết có hậu hiện đại và nghiễm nhiên coi
các trào lưu hiện đại trong văn nghệ xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 là hậu
hiện đại. Hiện tại ở Việt Nam đang có một xu hướng tiếp nhận một luồng ý
kiến thiếu căn cứ về chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong việc tiếp thu luồng ý
kiến đó, vì không xác định được chủ nghĩa hậu hiện đại là gì, người ta
đã lấy các đặc điểm có sẵn của chủ nghĩa hiện đại để gán cho cái gọi là
chủ nghĩa hậu hiện đại, đi đến chỗ tuyệt đối hóa chủ nghĩa hậu hiện đại
mà quên mất chủ nghĩa hiện đại là gì, đánh mất hẳn một khâu quan trọng
trong hệ thống các khái niệm và trào lưu văn học - nghệ thuật. Bằng cách
đó, họ đã làm cho thuật ngữ "hậu hiện đại" trở nên mơ hồ và thậm chí vô
nghĩa. Rõ ràng, ở đây có vấn đề cần được làm sáng tỏ về khái niệm hiện
đại và hậu hiện đại, và về quan hệ giữa chúng với nhau.
Mặc dù
ngày nay chúng ta đã có cái nhìn đổi mới về chủ nghĩa hiện đại nói chung
và các trào lưu hiện đại chủ nghĩa của phong trào tiên phong nói riêng,
nhưng các "di căn" của chủ nghĩa giáo điều trước đây đôi khi vẫn để lại
những ý kiến e ngại khi đánh giá chúng. Chính vì vậy, chúng tôi muốn
nói rằng, chúng ta cần có nhìn khách quan và có hệ thống về các trào lưu
trường phái trong văn học - nghệ thuật nói chung, về các trào lưu hiện
đại chủ nghĩa nói riêng. Việc xác định đặc trưng, tên gọi của các trào
lưu cần được thực hiện một cách thống nhất. Những người biên soạn sách
lý luận, phê bình văn học - nghệ thuật cần có sự hợp tác trong việc xây
dựng một hệ thống thuật ngữ, khái niệm, lý thuyết và các trào lưu. Cần
có sự nhất quán trong việc gọi tên các trào lưu, nếu có thay đổi thì cần
lý giải rõ ràng, chứ không tùy tiện phát ngôn mỗi lúc một kiểu. Việc
làm tùy tiện như thế sẽ có nguy cơ biến một lĩnh vực vô cùng nghiêm túc
thành một trò chơi ngẫu hứng.
Qua đây, chúng tôi muốn đưa ra ý
kiến rằng, cần phải xem xét lại một cách nghiêm túc thuật ngữ "hậu hiện
đại". Cần có quan điểm lô-gích khi áp dụng nó cho các trào lưu văn học -
nghệ thuật. Tránh nhầm lẫn hiện đại với hậu hiện đại. Không tự tiện
thay đổi tên gọi của các trào lưu đã được định danh là "hiện đại chủ
nghĩa" trong lịch sử văn học - nghệ thuật để vô cớ gọi chúng là "hậu
hiện đại". Những điều nói trên có liên quan đến việc giới thiệu các lý
thuyết văn nghệ ở Việt Nam. Về vấn đề này, chúng tôi khẩn thiết cảnh báo
rằng, chúng ta cần có quan điểm khách quan, cẩn trọng khi tiếp thu các
quan điểm và lý thuyết của nước ngoài. Nhiều cuốn sách giới thiệu lý
thuyết chỉ làm một công việc nhắc lại mà không có khả năng tư duy
lô-gích cùng với tinh thần phê phán để phân biệt những điều "vô nghĩa
thời thượng" quá hiển nhiên trong những tuyên bố ồn ào về "hậu hiện
đại". Thói quen tiếp nhận thiếu suy xét trong khoa học đang trở thành
một sự cản trở đáng ngại cho sự phát triển lý luận, và thói quen này
đang trở nên đáng ngại nhất trong vấn đề "tồn tại hay không tồn tại chủ
nghĩa hậu hiện đại?"
Cuối cùng xin nói rằng, sự lãng quên chủ
nghĩa hiện đại, nhầm lẫn giữa hiện đại với hậu hiện đại sẽ có nguy cơ
làm rối loạn hệ thống lý luận văn nghệ, rối loạn các giá trị đã được
thiết lập của chủ nghĩa hiện đại, rối loạn các tiêu chí đánh giá tác
phẩm văn học đương đại, rối loạn các tiêu chí tiếp nhận văn học - nghệ
thuật của người thưởng ngoạn. Vì thế, việc xác định chủ nghĩa hiện đại
sẽ góp phần tái lập lại trật tự của các hệ thống kiến thức trong xã hội
thông tin, tạo cơ sở để con người đi vào xã hội tri thức, một xã hội đề
cao vai trò của tri thức, nhưng không phải là những tri thức nhằm mục
đích thao túng và chi phối con người, mà chúng luôn phải là sản phẩm của
con người và phục vụ con người. Ðó cũng là mục đích nhân văn của tự do
sáng tạo trong khoa học.