Đây là những kết quả của dự án “Tình hình di chuyển lao động từ nông
thôn ra thành thị và các khu công nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia
nhập WTO” được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội công bố sáng ngày 26/8.
Trong vòng 5 năm gần đây, có
6,5 triệu lao động đã di cư từ nông thôn ra thành thị, các khu công
nghiệp; trong đó 80% là vì mục đích mưu sinh. Đáng chú ý, có đến gần 70%
lao động di cư là thanh niên trẻ dưới 30 tuổi và đang gặp nhiều khó
khăn trong việc ổn định cuộc sống đòi hỏi cần phải có những hỗ trợ kịp
thời cho nhóm lao động trẻ này.
Đây là những kết quả của dự án “Tình hình di chuyển lao động từ nông
thôn ra thành thị và các khu công nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia
nhập WTO” được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội công bố sáng ngày 26/8.
Từ những kết quả của dự án, các chuyên gia, đại biểu từ các địa phương
đã đưa ra những góp ý để việc hoạch định chính sách hỗ trợ nhóm lao động
di cư từ nông thôn ra thành thị, các khu công nghiệp có tính khả thi
cao và sát với nhu cầu thực tế.
Thiếu nhà ở vẫn “nóng”
Theo kết quả nghiên cứu của dự án, vấn đề thiếu nhà ở vẫn là nỗi khó
khăn lớn nhất đối với lao động di cư, có tới 86,3% lao động di cư phải
thuê nhà ở và chỉ có 2,9% đã mua được nhà.
Tiền thuê nhà, điện nước sinh hoạt chiếm tới 23% thu nhập của người lao
động. Đặc biệt, hơn 85% lao động di cư phải trả tiền điện, nước sinh
hoạt theo giá của chủ nhà và cao gấp 2-3 lần giá theo quy định. Mong
muốn được hỗ trợ nhiều nhất đối với lao động di cư là tìm nhà ở/thuê giá
rẻ.
Chính vì những khó khăn về nhà ở, tích lũy hạn chế khiến đại đa số lao
động di cư không có định hướng lâu dài cho công việc của họ, gần 60% lao
động di cư không biết dự định sẽ sinh sống ở địa phương nơi làm việc
trong bao lâu và chỉ có 7,5% lao động quyết định sẽ định cư hẳn.
Theo ông Đặng Đình Long, Giám đốc Trung tâm Phát triển Xã hội và Môi
trường Vùng (CERSED) thì ở các khu công nghiệp, khó khăn lớn nhất mà lao
động di cư gặp phải là nhà ở.
“Kết quả nghiên cứu đã đặt ra một yêu cầu mới trong hoạch định chính
sách, đó là có tới 47% số lao động di cư đã kết hôn; trong đó 31,8% lao
động di cư sống với vợ, chồng và 14,5% sống với con cái, vì vậy, họ sẽ
muốn ở lại ổn định hơn và là đối tượng cần được chú ý để xây dựng chính
sách hỗ trợ về nhà ở tốt hơn,” ông Đặng Đình Long nói.
Bà Nguyễn Thị Dân, Trưởng phòng Lao động-Việc làm-Tiền lương (Sở Lao
động-Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí Minh) cũng cho rằng nhà ở
đang là nhu cầu cấp thiết nhất đối với lao động di cư. Tuy nhiên, bà
Nguyễn Thị Dân cũng nhấn mạnh: “Thực tế có rất nhiều lao động không muốn
ở các khu nhà giá rẻ dành cho công nhân mà muốn thuê nhà bên ngoài ở vì
họ có con nhỏ, không muốn bị quản lý theo quy chế do công ty đặt ra.”
Bà Nguyễn Thị Dân cho rằng, đối lượng lao động di cư hiện nay đa số là
lao động trẻ với nhu cầu kết hôn, sinh con nên mong muốn về nhà ở ổn
định sẽ tăng mạnh trong thời gian tới. Vì vậy, trong quá trình quy hoạch
cũng cần nghiên cứu rõ mong muốn, yêu cầu thực tế của lao động di cư để
xây dựng các khu nhà ở sao cho phù hợp và có tính bền vững, lâu dài.
Không hỗ trợ kiểu “chữa cháy”
Kết quả nghiên cứu cho thấy rất ít lao động nhận được sự hỗ trợ từ các
tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước để khắc phục khó khăn khi di cư. Có tới
67,1% người lao động tự khắc phục khó khăn; 18,5% nhờ bạn bè, đồng
hương giúp đỡ và 15,7% nhờ họ hàng.
Hiện nay, việc hoạch định chính sách dành cho lao động di cư của ngành
Lao động-Thương binh và Xã hội vẫn chỉ dừng ở mức hỗ trợ lao động sau
khi di cư. Các chuyên gia cho rằng cần phải xây dựng một chu trình hỗ
trợ khép kín từ khi lao động chuẩn bị di cư khỏi địa phương đến khi tìm
được việc và ổn định cuộc sống.
Theo ông Đặng Đình Long, “ngành lao động không thể chỉ đi ‘chữa cháy’ mà
phải được tham gia vào từ việc quy hoạch các khu công nghiệp đến hoạch
định chính sách phát triển dài hạn của địa phương để kịp thời xây dựng
những chính sách cho lao động trước và sau khi di cư.”
Bà Nguyễn Thị Dân thì nhấn mạnh: “Quan trọng nhất là làm sao để lao động
di cư có tổ chức, không để tình trạng cả nơi lao động đến và đi đều
không được hỗ trợ. Hiện nay, các trung tâm giới thiệu việc làm chưa
thống kê được chính xác số lượng lao động di cư và nhập cư nên việc bảo
vệ nhóm lao động này khi có rủi ro là rất khó khăn.”
Đồng tình với ý kiến của bà Nguyễn Thị Dân, ông Lê Quang Trung-Cục phó
Cục Việc làm (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội) cũng cho rằng cần phải
nâng cao vai trò của các Trung tâm giới thiệu việc làm trong việc quản
lý lao động. Bên cạnh đó, các trung tâm không chỉ cung cấp thông tin về
thị trường lao động mà còn cần thông tin về đời sống xã hội nơi lao động
sẽ di cư đến để họ chuẩn bị cho một cuộc sống mới.
Đối với vấn đề xây dựng chính sách hỗ trợ lao động di cư, bà Nguyễn Thị
Kim Oanh, Giám đốc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội Bình Dương cho rằng
cần phải thay đổi việc phân bổ ngân sách địa phương tính theo hộ khẩu,
dân số địa phương đối với những nơi có nhiều lao động di cư tới.
Theo bà Nguyễn Thị Kim Oanh, ngân sách đầu tư cở sở vật chất, dịch vụ xã
hội các tỉnh thường chỉ đảm bảo phục vụ dân số địa phương chứ chưa tính
đến cả những nhu cầu của lao động di cư nên những nơi có nhiều khu công
nghiệp thường hay bị quá tải về nhà ở, dịch vụ y tế, giáo dục. Vì vậy,
cần phải có những cơ chế quản lý đặc thù cho những địa phương tiếp nhập
số lượng lớn lao động di cư tới để có thể có thêm nguồn đầu tư phục vụ
cả lao động di cư.
Các chuyên gia nhận định, những kết quả nghiên cứu của dự án là tư liệu
quan trọng để những người xây dựng chính sách sao cho đi vào thực tế và
có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện của từng vùng miền, địa
phương./.
Dự án "Tình hình di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị và các khu
công nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO" do Chương trình hỗ
trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO (B-WTO) hỗ trợ và Cục Việc làm (Bộ Lao
động-Thương binh và Xã hội) thực hiện tại 15 tỉnh, thành phố có nhiều
lao dộng di cư đến.
Dư án được thực hiện từ tháng 4/2012 đến tháng 8/2013, với tổng kinh phí
hơn 320.000 USD. Dự án sẽ cung cấp những nghiên cứu, đánh giá, đề xuất
hoàn thiện các chính sách để quản lý và hỗ trợ cho lao động di cư, đặc
biệt là lao động nông thôn di cư./.
|
Hồng Kiều (Vietnam+)