1. Luật
Sở hữu trí tuệ được Quốc hội thông qua năm 2005 (Luật số 50/2005/QH11)
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2006, được sửa đổi, bổ sung năm 2009
(Luật số 36/2009/QH12) và năm 2019 (Luật số 42/2019/QH14), là văn bản
pháp luật với các quy định thống nhất, đồng bộ, minh bạch, nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến loại tài sản đặc biệt - tài sản
trí tuệ. Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành là dấu mốc quan trọng trong
quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ
của nước ta, có tác động tích cực trong việc thúc đẩy, hỗ trợ các hoạt
động sáng tạo, khai thác và bảo vệ các tài sản trí tuệ, khuyến khích
cạnh tranh lành mạnh, tăng tính hấp dẫn đối với các chủ thể nước ngoài.
Các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ bảo đảm nguyên tắc cân bằng lợi ích
giữa cá nhân (chủ sở hữu) với công chúng (xã hội), tạo động lực thúc
đẩy phát triển hoạt động nghiên cứu sáng tạo, sản xuất, kinh doanh,
hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Luật
Sở hữu trí tuệ tạo hành lang pháp lý, góp phần từng bước thúc đẩy các
hoạt động đầu tư, kinh doanh, khai thác, góp vốn, liên doanh, liên kết,
chuyển giao, chuyển nhượng các tài sản trí tuệ, phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Theo đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có
cơ sở pháp lý để công nhận, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể khi giải quyết tranh chấp, xâm phạm quyền trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ.
Trong
quá trình hội nhập quốc tế, Luật Sở hữu trí tuệ đã chú trọng tận dụng
những linh hoạt mà các cam kết quốc tế cho phép, như đặt ra các điều
kiện hạn chế và biện pháp chống lạm dụng quyền, áp dụng cơ chế nhập khẩu
song song, chế độ cấp phép bắt buộc,... Do đó, Luật Sở hữu trí tuệ đã
thực sự trở thành công cụ pháp lý quan trọng của nước ta trong việc bảo
đảm lợi ích quốc gia trong quá trình hội nhập, đồng thời tôn trọng các
điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam tham gia.
Hiện
nay, về cơ bản, Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã đáp ứng các tiêu
chuẩn đặt ra của Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) và các điều ước quốc tế cơ bản
liên quan đến sở hữu trí tuệ, như Công ước Paris về bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp, Công ước Berne về bảo hộ
các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Công ước UPOV về bảo hộ giống cây
trồng mới. Các tiêu chuẩn đó được thể hiện ở các khía cạnh: các loại đối
tượng bảo hộ, tiêu chuẩn bảo hộ, nội dung và phạm vi quyền, thời hạn
bảo hộ, cơ chế bảo hộ và thủ tục xác lập quyền sở hữu trí tuệ.
Trong
các hiệp định thương mại tự do (FTA) được ký kết và có hiệu lực trước
năm 2016, như FTA Việt Nam - Chile, FTA Việt Nam - Hàn Quốc, FTA Việt
Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu..., phần lớn các nghĩa vụ về sở hữu trí
tuệ mà Việt Nam cam kết cơ bản đều dẫn chiếu tới các nghĩa vụ đã cam kết
tại Hiệp định TRIPS. Chỉ một số ít hiệp định có các quy định cụ thể,
cao hơn hoặc chi tiết hơn Hiệp định TRIPS, nhưng các quy định này hoặc
đã phù hợp với hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành của Việt Nam,
hoặc chủ yếu ở dạng không bắt buộc, chỉ đòi hỏi các bên phải nỗ lực
thực hiện.
2. Tuy nhiên, sau hơn 15 năm thực thi, Luật Sở hữu trí tuệ còn tồn tại một số bất cập, hạn chế nhất định. Cụ thể là:
Thứ nhất,
bất cập trong quy định về chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn,
chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng quyền sở
hữu, chuyển quyền sử dụng trong các hợp đồng chuyển giao quyền tác giả,
quyền liên quan.
Thứ hai,
bất cập ở quy định hiện hành khi chưa tạo được động lực khuyến khích
các tổ chức, cá nhân vốn trực tiếp tạo ra, khai thác và phổ biến sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tham gia vào quá trình
xác lập, khai thác và chuyển giao công nghệ, từ đó dẫn đến hoạt động
thương mại hóa sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí bị hạn
chế.
Thứ ba, bất cập về thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan và xác lập quyền sở hữu công nghiệp. Đối với thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, chưa
có quy định về thành phần hồ sơ để thực hiện đăng ký trực tuyến, chưa
quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khi thực hiện thủ tục. Đối với thủ tục đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp, một số quy định còn phức tạp và chưa hoàn toàn hợp lý, dẫn đến kéo dài thời gian thẩm định đơn xác lập quyền sở hữu công nghiệp.
Thứ tư, bất cập trong việc bảo đảm mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan,
Luật Sở hữu trí tuệ quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố
không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao, nhưng chưa
quy định cụ thể đối với các trường hợp khai thác, sử dụng tại thư viện.
Bên cạnh đó, Luật Sở hữu trí tuệ cũng chưa quy định rõ đối với việc sử
dụng dưới hình thức bản ghi âm, ghi hình nhằm mục đích thương mại (đặc
biệt đối với tác phẩm âm nhạc) trong các trường hợp sử dụng quyền tác
giả, quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút,
thù lao. Trong lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp, nhiều vấn đề
phát sinh từ thực tiễn thi hành cần phải xử lý để bảo đảm mức độ bảo hộ
thỏa đáng và cân bằng, như nguyên tắc đánh giá tính mới của sáng chế;
các trường hợp cần thiết có thể dẫn đến hủy bỏ hiệu lực bằng độc quyền
sáng chế, bằng độc quyền giải pháp hữu ích; xử lý trường hợp nhãn hiệu
đăng ký với dụng ý xấu... Bên cạnh đó, một số quy định hiện nay chỉ được
đề cập về mặt nguyên tắc trong Luật hoặc chỉ được quy định chi tiết
trong các nghị định hoặc thông tư hướng dẫn thi hành đã gây ra một số
bất cập trong việc thống nhất áp dụng pháp luật. Trong lĩnh vực giống cây trồng, quy
định về ngoại lệ quyền đối với giống cây trồng theo Luật Sở hữu trí tuệ
hiện hành còn rộng, chưa có quy định về giới hạn một cách hợp lý. Điều
này sẽ ảnh hưởng lớn đến lợi ích hợp pháp của tác giả, đồng thời khó bảo
đảm tuân thủ cam kết quốc tế.
Thứ năm,
bất cập trong hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ. Quy định hiện hành về
tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan chưa phù hợp
với quy định về đại diện trong Bộ luật Dân sự và chưa theo thông lệ quốc
tế. Ngoài ra, Luật Sở hữu trí tuệ cũng chưa quy định rõ quyền và trách
nhiệm của tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan.
Thứ sáu,
thực thi (bảo vệ) quyền sở hữu trí tuệ chưa thực sự hiệu quả. Việc mở
rộng phạm vi áp dụng biện pháp thực thi hành chính đối với các hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã tạo ra gánh nặng không cần thiết cho
ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, các quy định về thực thi quyền trong
môi trường số, hay xử lý tên miền vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ
chưa cụ thể, rõ ràng, gây khó khăn cho các cơ quan thực thi trong việc
xử lý các hành vi này.
Bên
cạnh đó, các cam kết về sở hữu trí tuệ trong các FTA thế hệ mới gần đây
(cụ thể là FTA giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu - EVFTA, Hiệp định
Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP, Hiệp định
Đối tác kinh tế toàn diện khu vực - RCEP) có mức độ mở cửa sâu, phạm vi
các vấn đề điều chỉnh đa dạng; trong đó quyền sở hữu trí tuệ đã nâng cao
mức bảo hộ vượt bậc so với Hiệp định TRIPS. Việc đặt ra hàng loạt các
tiêu chuẩn cao về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ của các FTA
thế hệ mới đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ, như quy
định về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, về bảo hộ dữ liệu thử nghiệm nông hóa
phẩm, về thẩm quyền chủ động áp dụng biện pháp kiểm soát tại biên giới,
về cơ chế đền bù cho chủ sở hữu sáng chế do chậm trễ trong thủ tục cấp
phép lưu hành thị trường của dược phẩm được sản xuất theo sáng chế
đó,...
Ngoài
ra, việc gia nhập một số điều ước quốc tế gần đây, như Thỏa ước La-hay
về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp và Hiệp ước Budapest về nộp
lưu chủng vi sinh dẫn tới yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung một số quy định
về thủ tục xác lập quyền sở hữu trí tuệ trong các văn bản quy định chi
tiết, hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ.
3. Trước
yêu cầu của bối cảnh mới, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã đề ra một trong những nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành
phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp là hoàn thiện thể chế về sở hữu
trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả.
Nghị
quyết số 38/NQ-CP ngày 25/4/2017 của Chính phủ Ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW “Về thực hiện
có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới” cũng đề ra nhiệm vụ rà soát, bổ sung và hoàn thiện
các văn bản pháp luật để bảo đảm sự tương thích giữa quy định của pháp
luật hiện hành của Việt Nam với các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, đặc biệt là về sở hữu trí tuệ. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày
27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động
tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư xác định rõ yêu cầu cần
hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, bảo hộ và khai thác hiệu quả,
hợp lý các tài sản trí tuệ do Việt Nam tạo ra; khuyến khích thương mại
hóa và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là đối với các sáng
chế tại Việt Nam trên cơ sở tuân thủ pháp luật trong nước và bảo đảm lợi
ích an ninh quốc gia; đồng thời, Nghị quyết cũng đề ra mục tiêu cụ thể
đến năm 2030 là Việt Nam duy trì xếp hạng về chỉ số Đổi mới sáng tạo
toàn cầu (GII) thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN (trong tổng số
80 tiêu chí cấu thành chỉ số GII, có 8 tiêu chí (chiếm 10%) liên quan
trực tiếp đến sở hữu trí tuệ). Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác
định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ là: “hoàn thiện
hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ”(1); “Tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ”(2).
Do đó, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ là cần
thiết, nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về việc hoàn thiện thể chế sở hữu trí tuệ; khắc
phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành Luật Sở hữu trí
tuệ cũng như những bất cập nảy sinh giữa các quy định của Luật Sở hữu
trí tuệ với các văn bản quy phạm pháp luật khác được Quốc hội ban hành;
thể chế hóa, nội luật hóa các cam kết để phù hợp với thông lệ quốc tế;
từ đó hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích tổ
chức, cá nhân sáng tạo, đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng
dụng có hiệu quả thành tựu khoa học - công nghệ trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội; bảo đảm tính ổn định, thống nhất, đồng bộ, minh bạch,
khả thi; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả; đồng
thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với kiểu dáng công nghiệp
các sản phẩm sản xuất bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp
phục vụ xuất khẩu đến các thị trường quốc tế. (Ảnh: vietnam.vnanet.vn)
Các
vấn đề cần sửa đổi của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành tập trung vào 7
nhóm chính sách lớn đã được Chính phủ thông qua như sau:
Chính sách 1:
Bảo đảm quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu
diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng,
chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan.
Theo
đó, các quy định liên quan đến xác định chủ thể nắm giữ quyền tài sản
(chủ sở hữu, tác giả, người biểu diễn) cần được quy định rõ ràng và cụ
thể hơn, giúp cho quá trình chuyển nhượng quyền sở hữu, chuyển quyền sử
dụng trong các hợp đồng chuyển nhượng, chuyển giao quyền tác giả, quyền
liên quan được thuận lợi hơn; quy định cho phép chuyển giao một số quyền
nhân thân theo thỏa thuận (thỏa thuận đặt tên, sửa đổi tác phẩm) phù
hợp với đặc thù của lĩnh vực quyền tác giả nhằm giải quyết những vướng
mắc tồn tại thời gian qua, như trường hợp có nhu cầu thay đổi tên tác
phẩm, sửa đổi, nâng cấp chương trình máy tính...
Chính sách 2: Khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách nhà nước.
Đề
xuất trao quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí được tạo ra từ ngân sách nhà nước một cách tự động và không bồi hoàn
cho tổ chức chủ trì trực tiếp tại Luật Sở hữu trí tuệ (và được hưởng
quyền sở hữu khi các đối tượng này được cấp văn bằng bảo hộ); đồng thời,
bổ sung các quy định để Nhà nước vẫn có thể kiểm soát được nhằm bảo đảm
việc khai thác có hiệu quả và cân bằng lợi ích giữa tổ chức chủ trì
(chủ văn bằng bảo hộ), lợi ích của Nhà nước với tư cách “chủ đầu tư” và
lợi ích xã hội.
Chính sách 3:
Tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký quyền tác giả,
quyền liên quan, thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo hướng đơn
giản, gọn nhẹ, nhanh chóng, thuận tiện, minh bạch.
Một
số sửa đổi cụ thể bao gồm: tạo cơ sở pháp lý để tổ chức, cá nhân thực
hiện đăng ký trực tuyến quyền tác giả, quyền liên quan; phân luồng ý
kiến người thứ ba để đẩy nhanh quá trình thẩm định đơn; đơn giản hóa bản
mô tả kiểu dáng công nghiệp; giới hạn việc kiểm soát an ninh đối với
sáng chế; cho phép trì hoãn công bố kiểu dáng công nghiệp; bổ sung một
số quy định đặc thù về thủ tục giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp.
Chính sách 4: Bảo đảm mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Bổ
sung một số trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả, quyền
liên quan, các giới hạn quyền tác giả, quyền liên quan nhằm bảo đảm hài
hòa lợi ích giữa chủ thể quyền tác giả với tổ chức, cá nhân khai thác,
sử dụng và công chúng hưởng thụ tiếp cận tác phẩm, bảo đảm thực thi các
cam kết quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Bổ
sung một số quy định nhằm kiểm soát sáng chế có sử dụng nguồn gen và
tri thức truyền thống về nguồn gen; bổ sung một số căn cứ chấm dứt hiệu
lực, hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ (sáng chế, nhãn hiệu); xử lý xung
đột giữa nhãn hiệu với tên giống cây trồng, với đối tượng quyền tác giả,
quyền liên quan; sửa đổi các quy định về chủ thể đối với chỉ dẫn địa
lý; làm rõ điều kiện bị coi là cạnh tranh không lành mạnh giữa tên miền
với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý có trước.
Chính sách 5: Tăng cường hiệu quả hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ.
Các
nội dung sửa đổi nhằm đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ cho hệ thống sở hữu trí
tuệ (bao gồm hoạt động đại diện, giám định): phân loại phạm vi hoạt
động đại diện sở hữu công nghiệp cụ thể và chi tiết hơn, đồng thời cắt
giảm các điều kiện kinh doanh không thích hợp để phù hợp với quá trình
cải cách thủ tục hành chính; xác định rõ phạm vi của giám định sở hữu
trí tuệ và giám định tư pháp về sở hữu trí tuệ; nguyên tắc thực hiện
giám định và giá trị của kết luận giám định.
Chính sách 6: Nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Các
quy định liên quan đến thực thi quyền được sửa đổi nhằm bảo đảm cơ chế
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được hiệu quả, hợp lý và khả thi hơn, trong
đó đáng chú ý là các nội dung đề xuất việc thu hẹp phạm vi xử phạt vi
phạm hành chính theo hướng chỉ xử lý bằng biện pháp hành chính các hành
vi xâm phạm quyền đối với 5 đối tượng (quyền tác giả, quyền liên quan,
nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng); bổ sung thẩm quyền chủ động
áp dụng biện pháp kiểm soát tại biên giới nếu trong quá trình kiểm tra,
giám sát và kiểm soát, cơ quan hải quan phát hiện căn cứ rõ ràng để
nghi ngờ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là hàng giả mạo sở hữu trí tuệ.
Chính sách 7: Bảo
đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế của Việt Nam về
bảo hộ sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập quốc tế.
Sửa
đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến biện pháp công nghệ bảo vệ
quyền và thông tin quản lý quyền để bảo đảm thực thi trong môi trường
số; một số quy định về ngoại lệ quyền tác giả, quyền liên quan; một số
nội dung liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu âm thanh; chấm dứt hiệu lực văn
bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu; cơ chế bảo đảm thông tin cho chủ bằng
sáng chế thực thi quyền trong thủ tục cấp phép lưu hành thị trường đối
với dược phẩm; nghĩa vụ bảo hộ dữ liệu bí mật trong đơn xin cấp phép
nông hóa phẩm; quyền, trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trung gian trên môi trường internet và mạng viễn thông; nghĩa vụ chủ
động tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
bị nghi ngờ là hàng giả mạo sở hữu trí tuệ...
Ngoài
Luật Sở hữu trí tuệ, các văn bản quy định chi tiết hay hướng dẫn thi
hành, như các nghị định, thông tư trong từng lĩnh vực, từng vấn đề liên
quan đến quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ cũng cần phải tiếp tục được
sửa đổi, bổ sung để có thể áp dụng sau khi Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi,
bổ sung) có hiệu lực. Bên cạnh đó, một số quy định chi tiết trong các
nghị định, thông tư cũng cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các điều
ước quốc tế mà Việt Nam mới gia nhập. Có như vậy mới tạo được hệ thống
pháp luật đồng bộ, có tính khả thi cao, bảo đảm vừa giải quyết vướng
mắc, bất cập trong thực tiễn, vừa thi hành hiệu quả các điều ước quốc tế
và phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay./.
TS. Đinh Hữu Phí
Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ
___________________
(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.201, 230.