Khẳng định vai trò và sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân trong lịch sử, đặc biệt là trong cách mạng vô sản, Lênin nhấn mạnh rằng chỉ một mình giai cấp vô sản tiến hành cuộc đấu tranh một cách đơn độc "thì đó không những là một điều dại dột, mà còn là một tội ác nữa". Còn Hồ Chí Minh trong Đường Cách mệnh cũng đã chỉ rõ: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”[1]…Thấm nhuần những nguyên lý của học thuyết Mác- Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tập hợp, cổ vũ, phát huy sức mạnh của quần chúng trong mặt trận dân tộc thống nhất qua thực tiễn đấu tranh giành và giữ chính quyền trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Cùng với thời gian, bài học về tinh thần đoàn kết, nguyên tắc đoàn kết và việc tổ chức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của cả dân tộc; giữ vững nguyên tắc, không lơ là cảnh giác cách mạng nhưng chân thành, cởi mở trong hợp tác và liên kết; với các hình thức vận động, tập hợp và quy tụ quần chúng phù hợp, hoạt động hiệu quả… của Mặt trận Việt Minh trong thời kỳ đổi mới và hội nhập thế giới càng trở nên có ý nghĩa biết bao
1. Nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Việt Minh
Năm 1924, trong tác phẩm Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, Hồ Chí Minh khẳng định ở Việt Nam: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”, thậm chí “là động lực vĩ đại và duy nhất” trong đời sống xã hội của người Việt Nam. Vì thế, Người chủ trương: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”[2]. Đây chính là những tư tưởng cơ bản nhất làm bệ đỡ cho tư tưởng và chiến lược, sách lược của Người về vấn đề xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất trong cuộc vận động cách mạng ở Việt Nam; đồng thời cũng là sự chuẩn bị đầu tiên về tư tưởng chính trị cho sự ra đời của Việt Nam độc lập Đồng Minh (Việt Minh) vào tháng 5/1941.
Nhân dân Việt Nam có lòng nồng nàn yêu nước, khát khao độc lập, tự do nhưng bị phong kiến và thực dân đế quốc áp bức, bóc lột nặng nề… Đó là cơ sở, là điều kiện khách quan để Đảng tiên phong của giai cấp công nhân có thể tập hợp, quy tụ, vận động và tổ chức các lực lượng yêu nước và tiến bộ, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc trong một hình thức trong mặt trận dân tộc thống nhất, rộng rãi nhằm thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, từ đầu năm 1930 cho đến trước tháng 5/1941, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (sau là Đảng Cộng sản Đông Dương), các hình thức mặt trận như: Hội Phản đế đồng minh (18/11/1930)- hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất ở Việt Nam ra đời theo tư tưởng Hồ Chí Minh; Hội Phản đế liên minh (3/1935), Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế (6/1936), Mặt trận dân chủ thống nhất (3/1938), Mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương (11/1939), Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế (cuối năm 1940) tuy tên gọi khác nhau, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể từng thời kỳ cách mạng, song vẫn chưa thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Các hình thức mặt trận này, một mặt phản ánh sự phát triển nhanh chóng của phong trào cách mạng Việt Nam; mặt khác phản ánh những hạn chế, thiếu sót của các hình thức mặt trận, như thiếu một bề sâu cần thiết, thiếu sự tham gia của nhiều đảng phái...
Ngày 28/1/1941, sau gần 30 hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước. Tháng 5/1941, tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định chuyển hướng chiến lược cách mạng: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ, thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc… Trên tinh thần xác định vị trí chính trị của mình là phải “đứng đầu cuộc tranh đấu dân tộc giải phóng có hàng triệu dân chúng tổ chức hăng hái tham gia”[3], việc giải quyết thỏa đáng mối quan hệ Đảng với tổ chức quần chúng - mặt trận dân tộc thống nhất- thực sự là nơi quy tụ sức mạnh của quần chúng để tạo nên một sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng đã được thực hiện bằng việc thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ngày 19/5/1941.
"Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”- lần đầu tiên, một mặt trận thống nhất dân tộc, có sức mạnh hiệu triệu, đánh thức tinh thần dân tộc của toàn dân nhằm đánh Pháp, đuổi Nhật được thành lập. Trong Chương trình cứu nước, Việt Minh nêu 10 điểm, gồm những điểm chung cho toàn thể dân tộc và những điểm đấu tranh cho quyền lợi của công nhân, nông dân và cho mọi tầng lớp nhân dân. Song tựu trung lại, 10 điểm ấy cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào Việt Nam đang mong muốn: 1. Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng sung sướng tự do, như lời bài ca tuyên truyền của Việt Minh đã chỉ rõ: “Có mười chính sách bày ra/Một là ích quốc hai là lợi dân”[4]. Để Việt Minh vừa làm tròn nhiệm vụ của mình, đồng thời là nơi quy tụ và nhân nguồn sức mạnh nội lực của dân tộc, Đảng “đưa ra chính sách cách mạng của mình ra đề nghị với Việt Minh” và việc các đảng viên tham gia các đoàn thể cứu quốc “đem chính sách của Đảng ta tuyên truyền phổ biến trong Việt Minh”[5] đã góp phần làm cho đường lối chính trị đúng đắn của Đảng và tinh thần hy sinh của Đảng có ảnh hưởng lớn và uy tín mạnh để lãnh đạo toàn dân tranh đấu chống quân thù.
Trong công tác, Việt Minh kiên trì đấu tranh khắc phục khuynh hướng cô độc, hẹp hòi; khắc phục tư tưởng tả khuynh; tìm ra điểm tương đồng của mọi tầng lớp nhân dân- đó là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Với các tổ chức thành viên đều có tên là “Cứu quốc” hội, như: Nông dân Cứu quốc hội, Công nhân Cứu quốc hội, Thanh niên Cứu quốc hội, Phụ nữ Cứu quốc hội, Việt Nam Cứu quốc hội, Nhi đồng Cứu vong hội,v.v.. và ngay Đảng Dân chủ Việt Nam sau khi thành lập cũng trở thành một thành viên của Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (vừa là một thành viên của Việt Minh nhưng giữ vai trò lãnh đạo) trên cơ sở quan trọng nhất là chủ nghĩa yêu nước chính, Mặt trận Việt Minh là một sáng tạo độc đáo nhằm “đồng tâm hợp lực. Muôn người một lòng. Nhân cơ hội này mà khôi phục lại Tổ quốc, mà làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập”[6]; là “sự thống nhất lực lượng để tranh đấu thực hiện vấn đề độc lập cho đất nước”.
Từ những tổ chức thí điểm Việt Minh đầu tiên ở Hà Quảng (Cao Bằng), Việt Minh đã phát triển dần ra toàn quốc. Tinh thần dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ trong các tầng lớp thanh niên, học sinh, trí thức và tư sản dân tộc yêu nước, đưa phong trào đấu tranh cách mạng chống Nhật-Pháp lên cao, sôi nổi và đều khắp trong cả nước. Sức mạnh của lòng yêu nước, khát khao độc lập, tự do, của tinh thần đoàn kết muôn người như một được phát huy mạnh mẽ và triệt để trên cơ sở tư tưởng độc lập, tự do và chiến lược đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh trong Mặt trận Việt Minh do chính Người sáng lập và lãnh đạo. Không chỉ có sĩ, nông, công, thương, binh, mà cả vua quan triều Nguyễn cũng ngả theo cách mạng...; không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, ý thức hệ, chính kiến…toàn dân tộc đã kết thành một khối thống nhất, làm một cuộc cách mạng vĩ đại, “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”[7], khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
2. Những bài học vẹn nguyên giá trị
Đại đoàn kết toàn dân tộc được hình thành và củng cố qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cả dân tộc, tạo thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam- tạo nên sức mạnh vô địch của cả một dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai, địch hoạ, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững. Trong sự nghiệp cách mạng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, phát huy mọi nguồn lực góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ vững chủ quyền quốc gia trong tình hình mới, nhất là chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức động viên nhân dân tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh...
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có sự góp sức không nhỏ của khối đại đoàn kết toàn dân được tổ chức, hoạt động và phát huy sức mạnh trong Mặt trận Việt Minh. Từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác tập hợp, vận động quần chúng để thực hiện các phong trào hành động cách mạng. Mỗi thời kỳ có một tên gọi khác nhau: Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt) trong kháng chiến chống Pháp; Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình ở Việt Nam được thành lập ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay, song có thể nói Mặt trận Việt Minh là một trong những điển hình thành công của Đảng về công tác mặt trận và phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Vì vậy, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần phải vận dụng và phát huy những bài học thành công của Mặt trận Việt Minh như:
Một là, thấm nhuần chỉ dẫn của Hồ Chí Minh: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”[8], trong Việt Minh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã được khẳng định. Ngày nay, để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - tổ chức xã hội rộng lớn nhất, vừa có tính liên hiệp rộng rãi, vừa có tính quần chúng sâu sắc; một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị - xã hội của nước ta, được tổ chức và hoạt động theo một cơ chế bảo đảm đầy đủ quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, thì vấn đề có tính nguyên tắc là không ngừng tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận dân tộc thống nhất. Theo đó, Đảng phải “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”; phải là “một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất”[9], giữ vững đường lối chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; chống mọi khuynh hướng hạ thấp vai trò của Đảng, đòi chia quyền lãnh đạo trong mặt trận, xa rời phương hướng, mục tiêu chiến lược của cách mạng. Trong mọi hoàn cảnh, Đảng không chỉ luôn phấn đấu nâng cao nǎng lực lãnh đạo bằng sự hoàn thiện đường lối chiến lược, đổi mới chủ trương, sách lược cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mà còn phải thường xuyên đổi mới phong cách, phương thức làm việc, chống tác phong quan liêu, mệnh lệnh; tuyên truyền, giáo dục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tôn trọng các tổ chức, lắng nghe ý kiến người ngoài Đảng…
Là hạt nhân lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam phải đứng trong Mặt trận và thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; chăm lo bồi dưỡng cán bộ và giới thiệu những đảng viên có phẩm chất, có tín nhiệm trong các tầng lớp nhân dân, có năng lực làm công tác Mặt trận, để Mặt trận chọn cử theo đúng điều lệ. Tôn trọng tính độc lập về tổ chức và hoạt động sáng tạo của Mặt trận, Đảng lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận đối với sự lãnh đạo của Đảng và đối với cán bộ, đảng viên. Đảng phải chú trọng xây dựng khối liên minh công - nông -trí vững mạnh là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời trên cơ sở phân tích đúng đắn các mối quan hệ giai cấp để đề ra một cương lĩnh chung của mặt trận, nhằm tập hợp thật rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp, các cá nhân yêu nước. Để mặt trận thực sự là nơi tập hợp và phát huy sức mạnh của các giai tầng trong xã hội thì phải luôn luôn tránh hai khuynh hướng lệch lạc là: cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ; hoặc đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không đấu tranh đúng mức với những tư tưởng và việc làm sai trái của các thành viên trong mặt trận.
Hai là, Việt Minh thực hiện chiến lược đoàn kết rộng rãi toàn dân, phát huy được sức mạnh của khối toàn dân đoàn kết chính một phần là nhờ đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Việt Minh thật sự một lòng một dạ phục vụ nhân dân, được nhân dân yêu mến, tin phục và hết lòng nuôi nấng, chở che, bảo vệ. Việt Minh coi đoàn kết là một vấn đề chiến lược, không phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị. Thực hiện nguyên tắc “thêm bạn, bớt thù”, những người đến với Việt Minh đã nhận được thái độ đoàn kết thật lòng, đoàn kết chân thành vì mục tiêu chung. Dù ở hoàn cảnh nào, thuộc giai tầng nào thì khi đến với Việt Minh họ đều cảm nhận được sự tôn trọng, sự tin cậy và đều được đặt đúng vị trí phù hợp; được giúp đỡ để sống và làm việc và được uốn nắn những sai lầm một cách chân tình, khi không may phạm phải để tiếp tục đồng hành cùng dân tộc... Bài học ấy có giá trị to lớn trong xu thế toàn cầu hóa, khi chúng ta thực hiện đường lối mở cửa, làm bạn, làm đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội nhưng vẫn giữ vững quyền độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nêu cao truyền thống đoàn kết của toàn dân ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước, các tôn giáo, các dân tộc, các nhân tố hǎng hái tham gia các phong trào cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền, tǎng cường pháp chế XHCN, tǎng cường sự nhất trí về mặt chính trị và tinh thần của xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Là cầu nối giữa Đảng và quần chúng, cán bộ Việt Minh là linh hồn của phong trào, không phải tất cả họ đều là đảng viên cộng sản nhưng đều là những người yêu nước và Việt Minh đã tin dùng họ, thật lòng coi họ là những "người của mình”. Vận dụng bài học ấy, Đảng không chỉ cần có chủ trương, đường lối, hệ thống chính sách, luật pháp hợp lòng dân, phù hợp với thực tiễn đất nước mà còn rất cần một đội ngũ cán bộ thực sự làcông bộc của dân, tận tụy gương mẫutrước dân, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không phân biệt là người trong Đảng hay ngoài Đảng. Luôn hướng về cơ sở, tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, ý kiến nhân dân, nói cho nhân dân hiểu, tạo sự đồng tâm và đồng thuận cao chính là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt hệ thống Mặt trận và đó cũng chính là yêu cầu, là đòi hỏi để Mặt trận đổi mới tổ chức, nội dung, phương pháp, hình thức hoạt động, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay chứng minh rằng: một nguyên tắc, một triết lý gốc của nền chính trị Việt Nam hiện đại, đó là “quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc”[10]; và bất cứ khi nào Đảng và nhân dân ta đi đúng quỹ đạo nói trên thì khi đó cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thử thách và giành thắng lợi to lớn; ngược lại, bất kỳ khi nào Đảng và nhân dân ta đi chệch khỏi quỹ đạo đó thì cách mạng Việt Nam gặp khó khăn và bị tổn thất. “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[11] và CNXH mà nhân dân ta xây dựng là lợi ích cơ bản, lâu dài, phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại bộ phận nhân dân ta. Đó là cơ sở khách quan của chiến lược đại đoàn kết dân tộc và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Ba là, Việt Minh sở dĩ tập hợp được đông đảo quần chúng vì Chương trình cứu nước đáp ứng nguyện vọng thiết tha của đại đa số đồng bào là công nhân và nông dân, đồng thời chú trọng đến tất cả các tầng lớp nhân dân khác. Đặc biệt, Việt Minh coi trọng việc thân ái giúp đỡ nhau, thật thà học tập nhau những ưu điểm và phê bình những khuyết điểm của nhau để cùng tiến bộ trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau… vì mục tiêu chung là giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đồng thời, Việt Minh đã hình thành những mô hình tổ chức khác nhau đầy sáng tạo, sinh động phù hợp với từng giai tầng để hành động kịp thời, theo đúng tinh thần "thật rộng”, "thật kín” như đã nêu trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 18/11/1930. Bài học đó thể hiện tư duy thực tế, căn cứ vào yêu cầu của từng địa phương, từng giai tầng, từng đối tượng mà định ra mô hình tổ chức và phương thức hành động mau lẹ dưới sự chỉ đạo chung của Tổng bộ Việt Minh. Trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, tư duy thực sự, thực tế ấy có ý nghĩa thiết thực, bởi mọi sự sao chép cứng nhắc, dập khuôn máy móc hay quan liêu áp đặt đều dẫn tới sai lầm, không được lòng dân. Các hình thức tổ chức quần chúng chỉ có sức sống khi quần chúng cần đến nó chứ không thể khiên cưỡng, áp đặt. Trên tinh thần đó, có thể thấy chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng: trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng XHCN, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam.
Vì vậy, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện một trong 5 bài học kinh nghiệm được rút ra sau 30 năm đổi mới nêu trong Dự thảo văn kiện trình Đại hội XII của Đảng: “Phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”[12], Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một mặt, cần chăm lo xây dựng đội ngũ công nhân, nông dân, trí thức làm nền tảng; mặt khác, chú trọng không bỏ sót ai, không coi nhẹ một ai trong xã hội nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng nông thôn mới, thực hiện an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sáng kiến vào sản xuất, tăng năng suất lao động; vận động toàn dân tích cực tham gia phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng đô thị văn minh, bảo vệ môi trường; khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập...
Tựu trung lại, dù được gọi với tên nào, song chỉ khi mặt trận dân tộc thống nhất là nơi tập hợp, động viên hết thảy mọi người tích cực tham gia vào sự nghiệp cách mạng; được quy tụ, đoàn kết trên cơ sở chương trình hành động chung, các giai tầng trong mặt trận đều thống nhất về lợi ích chung của dân tộc, đồng thời giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh để phát huy cao nhất vai trò của các thành viên tham gia mặt trận vì mục tiêu chung thì mặt trận mới phát huy được vai trò và sức mạnh của mình. 85 năm đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam đã rút ra cho mình bài học lớn: Đó là khi nào Mặt trận nắm vững tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, đoàn kết và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc thì dù khó khăn đến đâu cách mạng cũng vượt qua. Đất nước đang tiến hành đổi mới và hội nhập, trước thời cơ, vận hội mới và cả những khó khăn và thách thức của khủng hoảng kinh tế thế giới và âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, hơn lúc nào hết, bài học về phát huy sức mạnh quần chúng của Đảng qua mặt trận Việt Minh đã tiếp tục phát huy giá trị, để không chỉ khơi dậy sức lực, trí tuệ, tiềm năng của toàn dân, mà còn góp phần tạo nên những phong trào hành động cách mạng sinh động, phong phú mang âm hưởng của thời đại “đổi mới và hội nhập”.
TS. Văn Thị Thanh Mai
----------------
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.2, tr.283.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.1, tr.466-467.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.2, tr.158.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.6, tr.158.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.7, tr.124.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.3, tr.209.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.4, tr.4.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.3, tr.138.
[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.3, tr.139.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.113.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, tr.48.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảoVăn kiện trình Đại hội XII Đảng, Lưu hành nội bộ.