(TG) - Chiều Tây Nguyên, giữa nhà rông làng Kà
Đin, xã biên giới Mô Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, già làng A Teng
nắm chặt lấy tay tôi, ông nói: “Nhà mình có nuôi được con heo, để dành
mấy ghè rượu ngon, hôm nào mời cán bộ về làng mình nhé!”. Ông khoát tay
chỉ về mấy cán bộ chiến sĩ đồn biên phòng 707 đứng quanh đó rồi ôn tồn:
“Cả thằng Việt, thằng Khiển, thằng Ánh… nó là con của cái làng này rồi,
nhất định Tết này phải ở làng cùng làng, cho già vui cái bụng đó nghe.”
Bám đất giữ biên cương
Đồn biên phòng 707 đứng chân trên địa bàn xã biên giới Mô Rai thuộc huyện Sa Thầy. Đường biên giới của xã tiếp giáp với nước bạn Campuchia dài 110km. Xã Mô Rai có diện tích tự nhiên hơn 1500km2, được so sánh tương đương với diện tích của tỉnh Thái Bình. Thượng tá Võ Quốc Việt, đồn trưởng 707 tâm sự: “Được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ 21 km đường biên giới xã Mô Rai, hơn 5 năm đã qua kể từ ngày thành lập, cán bộ chiến sĩ nơi đây đã khắc phục vượt lên gian khó với tình yêu biên giới thiêng liêng đã bám trụ vững vàng, nơi vùng biên đầy khắc nghiệt.” Ngoài nhiệm vụ giữ gìn an ninh biên giới, cán bộ chiến sĩ đồn biên phòng 707 có nhiệm vụ chính trị rất cơ bản là chăm lo đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây. Với hơn 2000 nhân khẩu gồm 11 dân tộc chủ yếu là đồng bào dân tộc Ja Rai và Rơ Mâm, trong đó Rơ Mâm là một trong các dân tộc còn ít người nhất Việt Nam, hiện nay còn 123 hộ, 360 khẩu đang sống tập trung ở làng Le. Đời sống của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, các tập tục lạc hậu vẫn tồn tại, ý thức tự vươn lên dựng xây cuộc sống còn hạn chế, phương thức canh tác sản xuất còn xưa cũ, không hiệu quả là những vấn đề được cán bộ, chiến sĩ đồn biên phòng 707 đưa vào chương trình hành động giúp dân trong những năm qua.
Chúng tôi cùng thiếu tá Nguyễn Văn Khiển, thượng úy Đồng Thanh Tĩnh về các làng GRập, làng Rẽ, làng Kênh, làng Xộp, làng Le… đi đến đâu cũng được bà con đón tiếp như người thân lâu ngày gặp lại. Bí thư chi đoàn Đồng Thanh Tĩnh giở sổ ghi chép rồi thông tin những con số giúp dân những năm qua: Gần 1000 ngày công giúp dân làm nhà, làm cỏ lúa, vệ sinh thôn làng… xây dựng 27 ngôi nhà tình nghĩa trị giá gần 500 triệu đồng; quyên góp tặng 7 sổ tiết kiệm, mỗi sổ 200 ngàn đồng tặng gia đình chính sách, neo đơn; xây dựng các làng Tang, làng Le, làng Kênh trở thành các làng văn hóa; vận động 122 học sinh bỏ học trở lại trường; khám bệnh và cấp phát thuốc miễn phí cho nhân dân. Xây dựng mô hình trình diễn cho 3 hộ trồng 12 ha cao su tiểu điền đang phát triển tốt. Trong “Nhật ký giúp dân” của chi đoàn 707 còn dài lắm với những con số chi tiết hàng ngày được chính trị viên phó Đồng Thanh Tĩnh coi như cuốn sổ truyền thống của chi đoàn.
Đã là con một nhà
Đêm biên giới Mô Rai đã gieo vào lòng chúng tôi quá nhiều cảm xúc. Đây là chủ quyền của Tổ quốc thiêng liêng cùng với đồng bào ruột thịt của mình đã bao đời gắn bó, bám đất, giữ rừng để cùng bộ đội biên phòng canh giữ đất trời Tổ quốc. Trong men rượu cần ngây ngất chốn vùng biên, già làng A Glá vít cần rượu thật sâu mời tôi cùng uống. Xong ông nói: “Cán bộ à, người dân Mô Rai với bộ đội biên phòng như anh em một nhà thôi. Cái bụng của bộ đội nó tốt lắm, nó mang lại niềm vui cho dân làng mình đó”. Ông nhắc lại những cái tên, có những người đã chuyển công tác khỏi đồn 707 như Phạm Xuân Bốn, Hoàng Văn Hà… Chiến sĩ Lưu Văn Hiệp nhớ lại: “Hôm tôi và Bốn trở lại Mô Rai, người dân làng Xộp, làng Le, làng Kênh cứ vây lấy, ôm lấy tôi và Bốn mà khóc, khóc thành tiếng: “Tại sao thằng Bốn đi mãi không về”. Chứng kiến cuộc hội ngộ đầy ắp tình người ấy, cổ họng tôi như nghẹn lại. Phải chăng những giọt nước mắt để tri ân các chiến sĩ biên phòng. Xúc động hơn là hình ảnh ông A Chóc, năm nay đã ngoài 80 tuổi cứ ôm lấy Bốn xuýt xoa: “Thằng em mình năm nay lớn quá, anh nhìn mãi mới nhận ra”. Thì ra A Chóc và Bốn đã kết nghĩa anh em. Ông lại nói như với chính mình: “Thằng Bốn tốt bụng lắm, nó dạy mình biết cái chữ, giúp trồng cây lúa nước, đêm nằm ngủ mình mơ thấy nó nhiều lần thì thương nó quá. Chỉ có anh em trong nhà thì mới giúp nhau như thế chứ?”. Cái lý của ông A Chóc giản đơn, mộc mạc như chính lòng người Mô Rai vậy. Còn già làng A Buông ở làng Xộp thì tâm sự: “Bộ đội biên phòng vừa dạy học, vừa giúp dân lao động sản xuất, khám chữa bệnh cho bà con nên bà con quý lắm. Việc gì cũng gọi biên phòng. Mình nhớ lắm tình cảm của thằng Sơn (y sĩ Nguyễn Quang Sơn) trong những lần xuống chữa bệnh cho dân, hay thằng Hòa, thằng Thông… những lần tập trung bà con để dạy chữ…
Ở Mô Rai trước đây còn hủ tục, nếu người mẹ chết mà đứa con còn nhỏ thì cũng được chôn theo mẹ. Đây được xác định là vấn đề “nóng nhất” mà đồn biên phòng 707 quyết tâm vận động bà con xóa bỏ. Bước đầu, anh em phải đối mặt với những thách thức vì hủ tục đã sâu chặt trong lòng người dân nơi đây. Anh em dám đương đầu với thử thách và đã cứu được những đứa trẻ sơ sinh thoát khỏi sự nghiệt ngã của hủ tục, viết nên những câu chuyện cổ tích dưới chân núi Mô Rai những năm về trước. Có nhiều cháu được cứu sống, trong đó có cháu Y Đức hiện đang sống, học tập, lớn lên trong vòng tay yêu thương tại trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh.
Trở lại Mô Rai, đến với bà con giữa chốn núi rừng biên giới, kỷ niệm trong mỗi chiến sĩ như âm hưởng từ cuộc sống dội về trong ký ức của mỗi người. Trung tá Hoàng Văn Hà, nguyên chính trị viên đồn 707 vẫn khắc ghi trong tâm khảm của mình cái ngày anh được ông bà A Blong ở làng Le nhận về làm con nuôi với một nghi thức rất trang trọng là “Cắt máu uống rượu thề”. Buổi lễ kết nghĩa được mời cả làng và đồn biên phòng đến chứng kiến. Ông bà A Blong cho thịt con trâu, sừng dài hơn 3 nắm tay cùng 2 ghè rượu, còn Hà phải ra thị trấn mua bộ quần áo, đôi dép, cái mũ mới về tặng cha; tìm cặp Kà Tu (váy), chiếc cặp tóc thật đẹp về tặng mẹ. Sau nghi thức “uống rượu thề” cả làng Le say sưa ca hát, tiếng cồng chiêng rộn rã, trò chuyện thâu đêm… Bà con thay nhau chúc mừng gia chủ có thêm thành viên mới là cán bộ của đồn biên phòng và cũng không quên cặn dặn “thằng Hà” về trách nhiệm của người con của buôn làng.
Giữa đất trời Tây nguyên nắng và gió, những người lính đồn biên phòng 707 vẫn âm thầm thả bước tuần tra, lặng lẽ mang niềm vui, cuộc sống mới đến với buôn làng. Đi dọc đường biên, tôi đã nghe tiếng hát của những chiến sĩ biên phòng nơi đây vọng vào vách núi, bài hát của nhạc sĩ Trần Chung mà thấy tha thiết, thân thương quá: “Chiều biên giới em ơi, có nơi nào vui hơn, nơi đầu sông đầu suối, nơi đầu sóng đầu gió, nơi tình yêu đôi ta”…
Nguyễn Văn Chiến