1.
Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư với những bước
tiến vượt bậc về khoa học, công nghệ đã và đang tác động lớn tới các
quốc gia, trong đó có Việt Nam, đem đến những cơ hội và cả thách thức
đối với việc thực hiện an sinh xã hội (ASXH).
Trước hết, CMCN lần thứ tư mang đến những thuận lợi đối với việc thực hiện ASXH ở nước ta.
Một là, CMCN lần thứ tư đưa lại những cơ hội việc làm mới, thúc đẩy đào tạo và tự đào tạo của công nhân Việt Nam.
Cuộc
CMCN lần thứ tư với sự phát triển của internet vạn vật, dữ liệu lớn,
điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo đã đem lại nền tảng công nghệ mới
cho những công việc trước đây chưa từng có, đồng thời mở ra cơ hội lớn
cho người lao động có thể tham gia đào tạo hoặc tự đào tạo để nâng cao
tay nghề trên nền tảng công nghệ số ở bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào.
Người lao động cũng có thêm cơ hội việc làm mới để nâng cao thu nhập,
cũng như có thể tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế mà
không cần trông chờ vào trợ cấp từ phía Chính phủ; qua đó, góp phần thúc
đẩy mở rộng diện bao phủ của chính sách ASXH và giảm gánh nặng tài
chính đối với các hoạt động bảo trợ của Chính phủ.
Hai là, công nghệ trở thành một trong những yếu tố quan trọng tạo đột phá trong hoạt động nghiệp vụ của hệ thống bảo hiểm xã hội.
Xu
hướng hiện đại hóa dựa trên sự kết hợp giữa nguồn dữ liệu lớn, công
nghệ di động và internet đang cho phép đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của các thành viên tham gia hệ thống ASXH. Nhờ những thành tựu của công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, người lao động có thể trực tiếp
theo dõi, giám sát việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp của chủ sử dụng lao động cho bản thân mình; qua đó, có thể
phản ánh đến các cơ quan chức năng để kịp thời phát hiện và xử lý, giúp
giảm tình trạng trốn đóng, nợ đọng bảo hiểm xã hội và bảo đảm quyền lợi
chính đáng cho người lao động. Ứng dụng công nghệ cũng cung cấp nhiều
dịch vụ, tiện ích khác góp phần công khai, minh bạch thông tin về quá
trình tham gia và thụ hưởng các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế. Người lao động và doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí, thời
gian giao dịch trong thực hiện các thủ tục hành chính.
Đồng thời, CMCN lần thứ tư đưa đến những thách thức to lớn đối với việc thực hiện ASXH ở Việt Nam, thể hiện ở một số điểm sau:
Một là, thách thức đối với vấn đề việc làm.
Nghiên
cứu mới đây của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho thấy, trong hai thập
niên tới, khoảng 56% số người lao động tại 5 quốc gia Đông Nam Á, trong
đó có Việt Nam, có nguy cơ mất việc vì sự tham gia của robot vào quá
trình sản xuất, đặc biệt là ngành dệt may(1). Trong tương
lai, một số ngành sử dụng nhân công giá rẻ khác sẽ không có nhiều nhu
cầu tuyển dụng công nhân. Trong khi đó, mặc dù đã có sự cải thiện, nhưng
nhìn chung, nguồn lao động chất lượng cao của nước ta còn hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi số đang diễn ra nhanh chóng hiện nay.
Theo dự báo, nước ta có thể mất tới 2 triệu việc làm vào năm 2045(2).
Theo
Tổng cục Thống kê, năm 2023, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt
52,4 triệu người, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,9%, cả nước
vẫn còn 38 triệu lao động chưa qua đào tạo. Tính chung năm 2023, lực
lượng lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ ước tính là 14,1 triệu
người, chiếm 27%(3). Như vậy, hiện tại, phần lớn lao động
Việt Nam chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn kỹ thuật, do đó, việc
bắt kịp với cuộc CMCN lần thứ tư và tìm kiếm cơ hội việc làm là một
thách thức to lớn, nhất là đối với các đối tượng yếu thế (lao động nông
thôn, lao động nữ và lao động cao tuổi).
Hai là,
mặt trái của công nghệ là có thể bị một số người sử dụng lao động lợi
dụng để “lách luật”, trốn thuế, vi phạm hợp đồng với người lao động,
thậm chí không ký kết hợp đồng lao động, nhất là với những công việc
trên không gian mạng. Điều này tạo rủi ro lớn đối với người lao động.
Ba là,
các công nghệ mới của CMCN lần thứ tư tạo ra sức ép phải có những đổi
mới hệ thống ASXH để theo kịp tiến trình phát triển việc làm và các mối
quan hệ lao động trong bối cảnh mới.
Bốn là,
CMCN lần thứ tư đặt ra yêu cầu gia tăng cường độ lao động. Thực tiễn,
ngày càng nhiều doanh nghiệp sử dụng các công nghệ mới của cuộc CMCN lần
thứ tư để theo dõi, giám sát chặt chẽ mọi thao tác, hành vi của người
lao động trong quá trình làm việc. Điều này tạo ra áp lực lớn về mặt tâm
lý cho người lao động, gia tăng căng thẳng, thậm chí dẫn đến những vấn
đề khủng hoảng tâm lý lao động và những tác động tiêu cực khác, có thể
đe dọa đến an toàn lao động.
2.
Mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức đại diện người lao
động trong thực hiện ASXH là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
lẫn nhau. Trong đó, Nhà nước là chủ thể chính xây dựng chính sách, pháp
luật, kiểm tra, giám sát thực hiện ASXH cho người lao động. Doanh nghiệp
là chủ thể thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổ chức đại
diện người lao động (bao gồm công đoàn cơ sở và các tổ chức của người
lao động tại doanh nghiệp) là chủ thể tham gia thực hiện và giám sát
việc thực hiện ASXH để bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động theo
đúng quy định của pháp luật.
Quan
hệ giữa ba chủ thể này được biểu hiện tập trung ở quyền và nghĩa vụ của
mỗi chủ thể đối với bản thân và hai chủ thể còn lại. Nhà nước quản lý
thông qua hệ thống luật pháp về chính sách ASXH; giám sát và sử dụng chế
tài buộc doanh nghiệp thực hiện đúng pháp luật; hỗ trợ tổ chức đại diện
người lao động trong bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho công nhân.
Doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm với người lao động thông qua việc dạy
nghề, việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an toàn lao
động... Tổ chức đại diện người lao động là cầu nối giữa người lao động
với doanh nghiệp và Nhà nước để thực hiện ASXH; cùng đại diện của Nhà
nước và doanh nghiệp kiến nghị, tư vấn cho Nhà nước xây dựng chính sách
ASXH phù hợp đối với người lao động. Như vậy, việc bảo đảm hài hòa mối
quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức đại diện người lao động
sẽ tạo cơ sở, động lực để các doanh nghiệp huy động, sử dụng hiệu quả
các nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, thu nhập, góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động; tạo điều kiện cho tổ
chức đại diện người lao động thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng cho người lao động.
Việc
đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức
đại diện người lao động trong thực hiện ASXH cho người lao động ở Việt
Nam chính là việc xem xét mỗi chủ thể đã thực thi vai trò của mình ra
sao trong việc thúc đẩy các chủ thể còn lại tham gia thực hiện ASXH cho
người lao động.
Thực
tiễn ở nước ta cho thấy, thời gian qua, Nhà nước đã rà soát, sửa
đổi, hoàn thiện và ban hành các chính sách khuyến khích các doanh
nghiệp tham gia đào tạo nghề, hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng lao động
nữ, lao động nông thôn, lao động là thanh niên… nhằm tạo việc làm
cho người lao động nói chung và các nhóm lao động đặc thù nói
riêng, như ban hành Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14, ngày 20/11/2019,
Luật Thanh niên số 57/2020/QH14, ngày 16/6/2020…; các nghị định hướng
dẫn thi hành một số điều của các luật, chính sách hỗ trợ tạo việc làm và
quỹ quốc gia về việc làm; chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, chính
sách về hỗ trợ lao động thuộc 62 huyện nghèo đi xuất khẩu lao động,
chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn, chính sách phát triển
dịch vụ việc làm và thị trường lao động đều hướng tới việc hỗ trợ học
nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và góp phần giải quyết việc làm
cho lao động nữ và lao động thanh niên. Đặc biệt, trong bối cảnh CMCN
lần thứ tư, ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
749/QĐ-TTg, phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025,
định hướng đến năm 2030” với nhiều nội dung chỉ đạo công tác đào tạo
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong
tiến trình chuyển đổi số.
Bên
cạnh đó, chính sách tiền lương trong khu vực doanh nghiệp đã từng bước
thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và vai trò
tham gia tư vấn của tổ chức đại diện người lao động. Nhà nước giảm dần
sự can thiệp hành chính, quản lý tiền lương thông qua quy định mức lương
tối thiểu vùng là mức sàn thấp nhất để bảo vệ người lao động yếu thế.
Mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh tương đối phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội, khả năng của doanh nghiệp, từng bước cải thiện đời
sống của người lao động. Doanh nghiệp được quyết định chính sách tiền
lương theo nguyên tắc chung, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa người lao động
và người sử dụng lao động.
Vai
trò của tổ chức công đoàn trong tham gia quyết định chính sách tiền
lương của doanh nghiệp từng bước được nâng lên. Nhà nước hướng dẫn, hỗ
trợ nâng cao năng lực, kết nối cung - cầu và cung cấp thông tin để người
lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận. Chính sách tiền lương
khu vực doanh nghiệp nhà nước được đổi mới phù hợp với chủ trương của
Đảng về sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước, gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Thời
gian qua, tổ chức công đoàn đã chủ động nghiên cứu và tổ chức nhiều hội
nghị để tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, cán bộ
công đoàn và người lao động tham gia xây dựng, hoàn thiện hơn chính
sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp…; từ đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các cấp công đoàn đã
kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành chức năng kịp thời ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh chính sách, bảo đảm
quyền lợi chính đáng cho đoàn viên công đoàn, người lao động. Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam đã chủ động, phối hợp cùng các cơ quan chức năng
đề nghị cơ quan thẩm quyền có giải pháp tháo gỡ khó khăn trong việc thực
hiện quy định khởi kiện về bảo hiểm xã hội của các cấp công đoàn để bảo
vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả trên, mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp,
tổ chức đại diện người lao động trong thực hiện ASXH cho người lao động
trong bối cảnh CMCN lần thứ tư còn một số hạn chế sau:
Một là,
thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức đại
diện người lao động trong đào tạo những nghề mới cho người lao động.
Doanh nghiệp chưa cung cấp kịp thời, đầy đủ nhu cầu nhân lực lao động
hằng năm cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động và giáo dục nghề
nghiệp theo quy định của Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục nghề nghiệp,
nên trên thực tế, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa thực sự đào
tạo sát nhu cầu của doanh nghiệp. Chính sự thiếu liên kết giữa các chủ
thể trên đã dẫn đến công tác đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng được
yêu cầu, cả về số lượng và chất lượng.
Hai là,
tổ chức đại diện người lao động chưa thật sự nắm bắt được những thách
thức mới đặt ra đối với hệ thống ASXH cho người lao động để có những
kiến nghị phù hợp với Nhà nước và doanh nghiệp. Một trong những vấn đề
đó là an toàn lao động. Trong cuộc CMCN lần thứ tư, nội hàm của an toàn
lao động cần được bổ sung những nội dung mới liên quan đến sức khỏe thể
chất và tinh thần của công nhân, như áp lực bị giám sát trong công việc,
nguy cơ cao bị cô lập xã hội trong môi trường số, bệnh nghề nghiệp
trong môi trường kỹ thuật số,…
Ba là,
Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách phù hợp buộc các doanh nghiệp thực
hiện nghĩa vụ đối với người lao động trong bối cảnh cuộc CMCN lần thứ
tư. Bên cạnh đó, việc bảo đảm và nâng cao cơ hội tiếp cận việc làm cho
lao động cao tuổi - lực lượng thường gặp khó khăn hơn trong tiếp cận
công nghệ mới chưa được chú trọng, nhất là khi nhu cầu sử dụng đối tượng
lao động này của doanh nghiệp thường thấp.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người
lao động cũng như bảo đảm an sinh xã hội cho công nhân, người lao động. (Nguồn: Vũ Dũng/ nhiepanhdoisong.v)
Một là,
Nhà nước, doanh nghiệp và toàn xã hội cần đẩy mạnh việc triển khai thực
hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24/11/2023 của Hội nghị Trung ương 8
khóa XIII về "Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội,
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn
mới”, trong đó có nhóm giải pháp về nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động
cũng như bảo đảm ASXH cho toàn dân, trong đó có công nhân, người lao
động.
Hai là,
nâng cao nhận thức mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức
đại diện người lao động trong thực hiện chính sách ASXH cho công nhân
trong bối cảnh CMCN lần thứ tư. Phân định rõ vị trí, vai trò, chức năng
của từng chủ thể trong mối quan hệ này, đồng thời có cơ chế bảo đảm
quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể được thực thi đúng trong thực tế, tạo
cơ sở thực hiện tốt ASXH cho người lao động hiện nay. Trong đó, cần lưu
ý vai trò định hướng có tính chất quyết định của Nhà nước đối với hai
chủ thể còn lại trong thực hiện ASXH cho người lao động. Nhà nước đưa ra
chính sách không chỉ bảo đảm lợi ích cho người lao động, mà còn cần
tính đến lợi ích của doanh nghiệp và tính khả thi trong thực hiện của tổ
chức đại diện người lao động. Doanh nghiệp phải căn cứ vào chính sách,
pháp luật của Nhà nước để bảo đảm làm đúng; kết nối với tổ chức đại diện
người lao động để thuận lợi trong thực hiện chính sách ASXH cho người
lao động.
Ba là, đổi mới phương thức hoạt động của tổ chức đại diện người lao động trong bối cảnh cuộc CMCN lần thứ tư.
Trong
thực tế, nhiều năm nay, tổ chức công đoàn đã nắm bắt được những vấn đề
xảy ra tại một số doanh nghiệp ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của
người lao động, như việc ký hợp đồng lao động, nội dung trong hợp đồng
không đầy đủ, không cụ thể, rõ ràng, không thực hiện chế độ nâng bậc
lương, không xây dựng thang bảng lương, chậm thanh toán, nợ tiền lương
của người lao động… Song, tổ chức công đoàn không thể đơn phương giải
quyết vấn đề đó mà phải thông qua các cơ quan quản lý nhà nước, lập đoàn
kiểm tra liên ngành để kiểm tra. Vì vậy, cần giao quyền chủ động kiểm
tra, giám sát, ít nhất là quyền giám sát ở một số nội dung, như việc
triển khai Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, xây dựng thỏa ước lao động
tập thể và thực hiện kinh phí công đoàn… cho tổ chức công đoàn, qua đó
góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao
động.
Bốn là,
nâng cao ý thức chấp hành luật pháp, trách nhiệm đối với vấn đề ASXH
của doanh nghiệp. Việc nhận thức được quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
có vai trò quan trọng trong giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh
nghiệp, tổ chức đại diện người lao động. Vì vậy, cần phải quán triệt,
phổ biến sâu rộng nội dung chính sách trong các văn bản quy phạm pháp
luật về ASXH cho người lao động (như mức lương tối thiểu, đào tạo nghề,
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an toàn lao động…), các hành vi bị cấm
(không ký kết hợp đồng lao động, trốn đóng bảo hiểm xã hội…) và chế tài
xử lý. Điều này góp phần bảo đảm doanh nghiệp thực hiện đúng chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Năm là,
cần có những nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ về những tác động của
cuộc CMCN lần thứ tư đến thực hiện ASXH cho người lao động hiện nay, từ
đó kiến nghị Nhà nước đề ra những chính sách phù hợp, tạo cơ sở để
doanh nghiệp thực hiện, tổ chức đại diện người lao động phối hợp tuyên
truyền, bảo đảm ASXH cho người lao động./.
TS. NGUYỄN VĂN QUYẾT - TS. NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
_________________________
*
Bài viết là sản phẩm của Đề tài cấp nhà nước: “Giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay; Đặc điểm, vấn đề và định hướng chính sách”. Mã số:
KX.04.25/21-25 do TS. Phạm Thị Hoàng Hà chủ nhiệm
(1)
Lê Thị Chiên, Thành Thu Trang: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 9/1/2023.
(2) Ngọc Trang: Lao động Việt Nam đến năm 2045 có thể mất 2 triệu việc làm, Báo Giáo dục và thời đại điện tử, ngày 17/11/2022.
(3) Ngân Anh: Năm 2023: Lực lượng lao động tăng hơn 660 nghìn người, Báo Nhân dân điện tử, ngày 29/12/2023.
(Nguồn: tapchicongsan.org.vn)