Chủ Nhật, 22/9/2024
Thời sự - Chính trị
Thứ Bảy, 30/5/2009 20:23'(GMT+7)

Năm học mới sẽ tăng mức trần học phí của khối đào tạo nghề nghiệp?

Xây dựng nền giáo dục có chất lượng ngày càng cao

Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân trình bày Tờ trình Đề án đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2009-2014 cho biết, mục tiêu của Đề án là xây dựng cơ chế tài chính mới cho giáo dục, nhằm huy động ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà nước và xã hội để nâng cao chất lượng và tăng quy mô giáo dục và đào tạo. Đề án cũng hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống các chính sách để tiến tới mọi người ai cũng được học hành với nền giáo dục có chất lượng ngày càng cao.

Theo Phó Thủ tướng, trong khi nền kinh tế nước ta đã chuyển sang cơ chế thị trường được 20 năm, đã hình thành các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày một tăng, thì cơ chế tài chính giáo dục thực tế vẫn chưa có thay đổi về chất so với thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Việc quản lý ngân sách giáo dục rất phân tán: các địa phương quản lý 74% ngân sách nhà nước chi cho giáo dục hàng năm, các bộ, ngành khác 21%, Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý 5%. Các địa phương, các bộ, ngành không có báo cáo về tình hình và hiệu qủa sử dụng ngân sách giáo dục cho Bộ Giáo dục và Đào tạo. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo không đủ điều kiện để đánh giá hiệu quả đầu tư của nhà nước cho giáo dục trong toàn quốc. Chế độ học phí xây dựng từ 11 năm trước chưa thay đổi. Mức học phí quá thấp, dưới khả năng chi trả của người dân ở các vùng đô thị, không phù hợp với mặt bằng giá cả cùng với chính sách cải cách tiền lương trong những năm qua...

Đề án gồm 8 nội dung: Xác định nhu cầu tài chính cho các mục tiêu phát triển giáo dục; xác định các nguồn lực từ ngân sách và xã hội và các giải pháp huy động và sử dụng tài chính khả thi và hiệu quả, từ đó đảm bảo cân đối nhu cầu và nguồn lực tài chính bền vững cho phát triển hệ thống giáo dục quốc dân. Quy định về trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa phương trong việc lập và thực hiện kế hoạch ngân sách giáo dục. Quy định về nguyên tắc xác định mức học phí mầm non, phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Quy định về thẩm quyền quyết định mức học phí và xác định mức học phí của các cơ quan trung ương, địa phương và các cơ sở giáo dục. Xây dựng các chính sách của nhà nước hỗ trợ việc học tập của nhân dân. Xây dựng cơ chế và chính sách khuyến khích xã hội đầu tư cho giáo dục. Quy định về lương và các chính sách khuyến khích đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Quy định các nghĩa vụ và quyền hạn về tài chính của các cơ sở giáo dục. Quy định về trách nhiệm và quyền giám sát, kiểm tra của các Bộ và cơ quan quản lý nhà nước, người học, gia đình người học và xã hội đối với việc sử dụng ngân sách giáo dục.

Báo cáo thẩm tra Đề án của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của QH cho biết, đa số thành viên Ủy ban cho rằng Đề án được xây dựng công phu, có căn cứ khoa học và thực tiễn, tiếp cận vấn đề một cách hệ thống và đưa ra những ý tưởng, cách thức mới trong việc đổi mới cơ chế tài chính của giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Các thành viên Ủy ban cũng cho nhiều ý kiến vào các vấn đề như mục tiêu của Đề án, huy động và quản lý tài chính cho giáo dục; cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho các mục tiêu giáo dục;đổi mới chính sách học phí và hỗ trợ người học;xác định học phí và hỗ trợ của Nhà nước, địa phươn;chính sách đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục;quyền hạn, trách nhiệm của các cơ sở giáo dục trong quản lý và giám sát tài chính và thời điểm bắt đầu thực hiện Đề án.

Cho ý kiến vào nội dung xác định học phí và hỗ trợ của Nhà nước, địa phương, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của QH cho rằng, khi người học chấp nhận đóng học phí cao hơn thì họ có quyền chính đáng đòi hỏi phía cơ sở giáo dục phải cam kết và hơn thế phải có cơ chế cụ thể đảm bảo chất lượng giáo dục tương xứng với mức học phí đã thu. Thuật ngữ “chất lượng cần thiết tối thiểu” đối với “chương trình đại trà” trong Đề án là không rõ ràng, cụ thể và chỉ nên dùng tạm thời trong quá trình phấn đấu đạt mục tiêu “chất lượng chuẩn”. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần công bố tiêu chuẩn thể hiện bằng các tiêu chí cụ thể đối với “chất lượng chuẩn” làm cơ sở cho công tác kiểm định chất lượng.

Đối với giáo dục mầm non và phổ thông, nếu áp dụng ngay từ đầu mức học phí trần như Đề án đề xuất thì mức tăng quá lớn và đột ngột đối với một số địa phương và một bộ phận học sinh. Bởi vậy, nên có lộ trình tăng dần từng năm và mức học phí trần dự kiến chỉ nên áp dụng vào năm cuối của Đề án.

Về tổ chức thực hiện, việc xác định thu nhập của hộ gia đình là rất phức tạp. Vì quản lý thu nhập hiện nay chủ yếu dựa vào lương và bằng tiền mặt nên việc tính toán thu nhập bình quân của hộ gia đình khó đảm bảo chính xác và công bằng. Vì vậy, cần có sự nỗ lực và nghiêm túc của chính quyền địa phương cũng như trách nhiệm của các ngành chức năng như giáo dục, tài chính trong việc xác định thu nhập bình quân của hộ gia đình và mức học phí của mỗi học sinh. Ngoài ra, hiện nay mới chỉ tính được mức thu nhập bình quân ở cấp tỉnh mà chưa tính được ở cấp huyện, xã. Cũng cần có biện pháp quản lý để tránh tình trạng sau khi đã xác định mức thu, học sinh sẽ dồn vào vùng học phí thấp.

Ủy ban cũng cho rằng, mức học phí của trung cấp nghề và cao đẳng nghề bằng nhau là khó chấp nhận; mức học phí của trung cấp nghề quá chênh lệch so với cấp trung học phổ thông là không hợp lý, không công bằng đối với các đối tượng cùng lứa tuổi và không khuyến khích học sinh sau trung học cơ sở đi học nghề. Đề nghị tách riêng khung học phí của trung cấp nghề đối với đối tượng sau trung học cơ sở và quy định mức học phí phù hợp theo quan điểm nói trên.

Ủy ban đề nghị đối với năm học 2009-2010 chấp nhận tăng mức trần học phí của khối đào tạo nghề nghiệp (trừ trung cấp nghề, trung học chuyên nghiệp sau tốt nghiệp trung học cơ sở) ở mức không quá 1/3 mức tăng chỉ số giá tiêu dùng từ năm 2000 đến 2009. Cụ thể là tăng mức trần học phí đại học từ 180.000đ/tháng lên 230.000đ/tháng (bậc cao đẳng có hệ số bằng 0,8 lần đại học) và đối với cao đẳng nghề từ 120.000 đ/tháng lên 155.000đ/tháng.

Bắt đầu từ năm học 2010-2011 sẽ thực hiện theo lộ trình của Đề án sau khi điều chỉnh và được phê duyệt.

Đáp ứng ngày càng tốt hơn chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân

Dự thảo Luật Khám bệnh, chữa bệnh gồm 8 chương, 81 điều quy định quyền và nghĩa vụ của người bệnh, người hành nghề và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện đối với người hành nghề và và cơ sở nghề khám bệnh, chữa bệnh; các quy định chuyên môn kỹ thuật; áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh, chữa bệnh; sai sót chuyên môn kỹ thuật và giải quyết khiếu nại của người bệnh. Theo tờ trình của Chính phủ, việc ban hành Luật Khám bệnh, chữa bệnh nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về khám bệnh, chữa bệnh; đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác khám bệnh, chữa bệnh hiện nay cũng như yêu cầu phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh.

Cho ý kiến vào một số vấn đề của dự thảo Luật, Ủy ban Về các vấn đề xã hội của QH cho rằng việc việc xây dựng Luật Khám bệnh, chữa bệnh sẽ góp phần bổ sung và tiếp tục hoàn thiện cơ chế, pháp luật cho công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất là tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động khám bệnh, chữa bệnh, cũng như đẩy mạnh xã hội hóa, huy động nguồn lực để nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh. Luật khám bệnh, chữa bệnh sẽ góp phần tạo ra môi trường bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước với cơ sở khám chữa bệnh tư nhân, trên cơ sở đó đáp ứng ngày càng tốt hơn chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Ủy ban Về các vấn đề xã hội của QH cho rằng về cơ bản, nội dung của Luật phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Tuy nhiên, đây là luật chuyên ngành nên các quy định chỉ tập trung điều chỉnh mối quan hệ giữa thầy thuốc và cơ sở y tế với người bệnh, tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động, hành nghề của cán bộ y tế cũng như của cơ sở khám chữa bệnh. Vấn đề cần phải tiếp tục quan tâm đó là Luật Khám bệnh, chữa bệnh cùng với các luật khác liên quan đến việc chăm sóc sức khỏe nhân dân đã được ban hành đến nay vẫn chưa thể chế hóa đầy đủ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân trong quá trình đổi mới.

Tăng cường sức khỏe và phúc lợi xã hội cho người cao tuổi

Dự thảo Luật Người cao tuổi quy định về quyền và nghĩa vụ của người cao tuổi; trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc phụng dưỡng, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; Hội người cao tuổi và trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với công tác người cao tuổi. Dự thảo Luật gồm 7 chương, 30 điều với các điểm mới so với Pháp lệnh người cao tuổi là các quy định được thay đổi mang tính quy phạm hơn, giảm các điều khoản mang tính nghị quyết, khẩu hiệu. Đã xác định rõ phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng và phân định rõ trách nhiệm phụng dưỡng của gia đình và việc chăm sóc của Nhà nước và xã hội. Dự thảo Luật đã quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ mang tính đặc thù của nhóm người cao tuổi. Điều chỉnh, sửa đổi một số quy định của Pháp lệnh hiện hành để phù hợp với một số luật mới được ban hành, đồng thời bổ sung và quy định cụ thể hơn một số chính sách trong: chăm sóc sức khỏe; hoạt động văn hóa, giáo dục, thể dục thể thao, giao thông công cộng; chúc thọ, mừng thọ, tang lễ; xã hội hoá theo hướng ưu tiên lứa tuổi, đối tượng; đảm bảo công bằng hơn, bổ sung các quy định liên quan đến cơ sở chăm sóc người cao tuổi và Quỹ chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi. Đối tượng người cao tuổi được hưởng các chính sách bảo trợ xã hội của Nhà nước được mở rộng hơn.

Ngoài ra, dự thảo Luật đã nghiên cứu, bổ sung những điểm cơ bản của Chương trình hành động quốc tế về người cao tuổi năm 2002 theo 3 hướng ưu tiên phù hợp với điều kiện của nước ta, đó là: người cao tuổi và phát triển; tăng cường sức khỏe và phúc lợi xã hội cho người cao tuổi; bảo đảm môi trường thuận lợi và hỗ trợ người cao tuổi.

Ban hành Luật Cơ yếu là yêu cầu khách quan nhằm hoàn thiện pháp luật về cơ yếu

Dự thảo Luật Cơ yếu gồm 5 chương, 38 điều quy định về hoạt động cơ yếu; nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc tổ chức của Cơ yếu Việt Nam và chế độ, chính sách đối với người làm việc trong tổ chức cơ yếu; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động cơ yếu.

Tờ trình của Chính phủ nêu rõ, theo quy định của pháp luật hiện hành thì tổ chức cơ yếu chưa cụ thể, chưa quy định tổ chức Cơ yếu Việt Nam được thành lập ở đâu, đến cấp nào để đảm bảo nguyên tắc là đầu mối độc lập, trực thuộc cấp ủy và thủ trưởng cơ quan sử dụng cơ yếu. Một số văn bản pháp luật khác như Luật Công an, An ninh quốc gia, Pháp lệnh tình báo, Luật Giao dịch điện tử, Công nghệ thông tin… có một số quy định liên quan đến hoạt động mật mã, thông tin liên lạc. Tuy nhiên các quy định pháp luật về cơ yếu, hoạt động mật mã để bảo vệ thông tin chưa thực sự đầy đủ và cụ thể, làm hạn chế việc tổ chức thực hiện một số nội dụng của các văn bản này trên thực tế… Vì vậy, việc xây dựng và ban hành Luật Cơ yếu là yêu cầu khách quan nhằm hoàn thiện pháp luật về cơ yếu; nâng cao hiệu quả quản lý, tổ chức, triển khai, sử dụng cơ yếu, quản lý hoạt động mật mã để bảo vệ thông tin; bảo đảm quốc phòng và an ninh, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển công tác cơ yếu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc ban hành Luật Cơ yếu sẽ tạo cơ sở pháp lý để xây dựng ngành Cơ yếu chính quy, hiện dại, vững mạnh về mọi mặt, đủ sức hoàn thành những nhiệm vụ mới do Đảng và Nhà nước giao…

TG-Tổng hợp

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất