Lợi thế về nguồn nhân công của Việt Nam đang có nguy cơ mất dần do năng suất lao động bị đánh giá thấp so với khu vực.
Ông Nguyễn Anh
Tuấn, Viện trưởng Viện năng suất, Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất
lượng, Bộ Khoa học-Công nghệ cho rằng, hiện nay, năng suất lao động là
chỉ tiêu cơ bản được tính toán và đánh giá năng suất. Tuy nhiên, khi so
sánh giữa các ngành, giữa các ngành kinh tế và giữa các quốc gia thì chỉ
sử dụng chỉ tiêu năng suất tính theo giá trị gia tăng chia cho số lượng
lao động. Đây cũng chính là mục tiêu cải tiến năng suất mà các quốc gia
đang tập trung. Với cách tính như vậy, năng suất lao động của Việt Nam
rất thấp. Bên cạnh đó, còn rất nhiều yếu tố tác động đến năng suất lao
động như: công nghệ, cơ cấu kinh tế, trình độ, kỹ năng người lao động,
môi trường làm việc, thị trường, thủ tục hành chính.
Có một nghịch lý là, mặc dù chúng ta
luôn vượt lên trên Singapore, Malaysia, Thái Lan trong các cuộc thi tay
nghề nhưng năng suất lao động của người Việt Nam kém người Singapore 15
lần, kém người Malaysia 5 lần và chỉ bằng 2/5 năng suất lao động khi so
sánh với người Thái Lan. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để đổi mới đổi
phương thức, nâng cao hiệu quả đào tạo nghề theo cơ chế thị trường?
Ông Dương Đức Lân, Tổng Cục trưởng, Tổng
Cục dạy nghề, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội nói: Trước năm 2000,
thường chúng ta có gì dạy đấy, nhưng sau năm 2000 chuyển từ hướng cung
sang hướng cầu. Hiện nay, chúng tôi đã ban hành được 230 chương trình
khung, bao gồm các kiến thức kỹ năng cốt lõi trong đó mà do phân tích
nghề. Phân tích nghề ở đây hoàn toàn do doanh nghiệp làm để biết nghề đó
cần bao nhiêu nhiệm vụ, bao nhiêu việc và cần năng lực đến đâu là do
doanh nghiệp đưa ra. Và chương trình khung đó được ban hành trên cơ sở
nhu cầu, kiến thức, kỹ năng do doanh nghiệp đòi hỏi. Tất nhiên, để đảm
bảo trình độ ra còn là vấn đề giáo viên, công nghệ, rồi vấn đề kiểm định
chất lượng và nhiều yếu tố khác nữa.
Để nâng cao năng suất lao động, các
chuyên gia cho rằng: đầu tư cho khoa học-công nghệ là điểm mấu chốt. Các
doanh nghiệp Việt đều nhận thức được lợi ích khi đầu tư công nghệ giúp
nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng lại thường gặp khó khăn về vốn.
Để tháo gỡ khó khăn này, chuyên gia kinh
tế Nguyễn Minh Phong đề xuất cần các cơ chế, chính sách khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư công nghệ sát với thực tế. Chúng ta đã có những động
thái như đã có chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp thành lập
Quỹ doanh nghiệp; đồng thời đã trừ phần chi phí để đầu tư khoa học công
nghệ trước khi tính thuế cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đã
tạo bình đẳng tiếp cận nguồn vốn khoa học công nghệ quốc gia cho các
doanh nghiệp./.