Tây Nam Bộ là địa bàn cư trú của 44 dân tộc với dân số năm 2019 là 17.273.621 người, chiếm khoảng 18% dân số cả nước(1).
Trong đó, chiếm số đông là dân tộc Kinh 15.963.219 người, chiếm 92,42%,
dân tộc Khmer với 1.141.241 người, chiếm 6,6%, dân tộc Hoa với 149.499
người, chiếm 0,87% và dân tộc Chăm với 13.170 người, chiếm 0,08%(2).
Các dân tộc cùng cộng cư và có vai trò quan trọng đối với sự hình thành
bản sắc văn hóa vùng Tây Nam Bộ. Trong tiến trình phát triển vùng đất
Tây Nam Bộ, các tộc người sinh sống trên vùng đất này đã cùng khai phá,
phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, chính trị - xã hội, thiết
lập mối quan hệ gắn bó trên tinh thần tương trợ lẫn nhau trong cuộc
sống đời thường và đoàn kết trong đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài
để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam(3). Trong
công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước kể từ
năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước ta đề ra nhiều chủ trương, đường
lối, chính sách chung cho cả nước và riêng cho vùng Tây Nam Bộ cũng như
cho từng dân tộc ở đây, như các chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội và
văn hóa, giảm nghèo, tạo việc làm và phát triển cộng đồng trên tinh thần
đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Là một tiểu vùng địa - chiến lược có ý nghĩa đặc biệt về lịch sử, kinh tế, văn hóa, quốc phòng - an
ninh, việc phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ vừa mang tính cấp bách,
vừa là chiến lược cơ bản, lâu dài và đã được quán triệt sâu sắc trong
đường lối, chủ trương, chính sách và các chương trình, dự án phát triển
kinh tế - xã hội, văn hóa, môi trường, quốc phòng - an ninh, con người ở cả cấp vi mô và vĩ mô.
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TÂY NAM BỘ
Ở Việt Nam, Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 xác định “phát triển bền vững” là:
1) Con người là trung tâm của phát triển bền vững; 2) Là yêu cầu xuyên
suốt trong quá trình phát triển đất nước; 3) Là sự nghiệp của toàn Đảng,
toàn dân, các cấp chính quyền, các bộ,
ngành và địa phương; của các cơ quan doanh nghiệp, đoàn thể nhân dân,
cộng đồng dân cư và mỗi người dân; 4) Tạo lập điều kiện để người dân và cộng
đồng có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận những nguồn lực
chung, được tham gia, đóng góp, hưởng lợi, tạo ra những nền tảng vật
chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho thế hệ mai sau; 5) Khoa học - công
nghệ là nền tảng, động lực cho phát triển bền vững đất nước. Đây là một
chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Quan điểm phát
triển bền vững được Đảng, Nhà nước lồng ghép, thể hiện xuyên suốt trong
các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các giai đoạn, các vùng, miền, như Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015 và 2016 -
2020, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược phát
triển văn hóa đến năm 2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 581/QĐ-TTg,
ngày 6/5/2009, của Thủ tướng Chính phủ)...
Đảng
và Nhà nước ta cũng ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm góp phần
phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ, như Quyết định số 1581/QĐ-TTg,
ngày 9/10/2009, của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt quy hoạch xây dựng
vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”; Kết
luận số 28-KL/TW, ngày 14/8/2012, của Bộ Chính trị về "Phương hướng,
nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc
phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020”; Quyết định số
2270/QĐ-TTg, ngày 21/11/2013, của Thủ tướng Chính phủ “Ban hành Kế hoạch
triển khai thực hiện Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14/8/2012, của Bộ Chính
trị về "Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và
bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020”;
Quyết định số 1005/QĐ-TTg, ngày 20/6/2014, của Thủ tướng Chính phủ “Phê
duyệt nhiệm vụ điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu
Long đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050”; Nghị quyết số 120/NQ-CP,
ngày 17/11/2017, của Chính phủ về "Phát triển bền vững đồng bằng sông
Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu”; Chỉ thị số 23/CT-TTg, ngày 5/9/2019,
của Thủ tướng Chính phủ về "Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP
của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng
với biến đổi khí hậu”...
VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA TRONG CÁC CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG TÂY NAM BỘ
Ảnh
hưởng của văn hóa trong các chủ trương, chính sách phát triển bền vững
vùng Tây Nam Bộ thể hiện ở hai phương diện: 1) Nhận thức, trình độ, kỹ
năng xây dựng, thực thi và đánh giá các chủ trương, chính sách phát
triển bền vững; 2) Vai trò, trách nhiệm xã hội, đạo đức nghề nghiệp
trong xây dựng, thực thi và đánh giá các chủ trương, chính sách phát
triển bền vững vùng Tây Nam Bộ. Cụ thể:
Một
là, nhận thức, trình độ, kỹ năng tiếp cận, xây dựng, thực thi và đánh
giá các chủ trương, chính sách phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ.
Hiện
nay, vùng Tây Nam Bộ đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức
lớn, như nước biển dâng, xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu; sự suy giảm về
số lượng và chất lượng nguồn nước; sự suy giảm động lực tăng trưởng kinh
tế truyền thống; tình trạng di cư cao, chất lượng nguồn nhân lực hạn
chế… Vì vậy, phát triển bền vững trở thành yêu cầu tất yếu đối với vùng
Tây Nam Bộ. Nhận thức được điều này, chủ trương, chính sách phát triển
bền vững vùng Tây Nam Bộ được Đảng, Nhà nước đề ra và được cụ thể hóa
qua nhiều văn bản chỉ đạo, tổ chức thực hiện như đã đề cập ở trên.
Nhờ đó, khu vực Tây Nam Bộ đạt được các thành tựu về phát triển bền vững trên nhiều lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa - xã
hội, môi trường. Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết số 120/NQ-CP, ngày
17/11/2017, đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, số
chi ngân sách nhà nước cho vùng Tây Nam Bộ đã tăng. Tuy nhiên, tốc độ
tăng chi ngân sách của vùng Tây Nam Bộ vẫn thấp hơn tốc độ tăng tổng chi
ngân sách nhà nước của cả nước. Tổng chi ngân sách cân đối ngân sách
nhà nước của vùng Tây Nam Bộ tăng từ 12,4% năm 2010 lên 14,2% trong năm
2020, nhưng mức tăng chi cân đối ngân sách nhà nước vẫn chưa đáp ứng nhu
cầu đầu tư phát triển vùng. Tỷ trọng đầu tư cho vùng Tây Nam Bộ trong
giai đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020
chỉ chiếm khoảng 18% cả nước. Trong giai đoạn 2021 - 2025, nhu cầu vốn
đầu tư của vùng lên tới 45.000 tỷ đồng, tuy nhiên, ngân sách chỉ có thể
cân đối được khoảng 50% mức này(4).
Văn
hóa là một trong những nguồn lực quan trọng của sự phát triển, trong đó
con người là yếu tố quyết định. Phát triển văn hóa ngày càng gắn kết
hơn với xây dựng con người Việt Nam, từng bước trở thành một trong những
nguồn lực quan trọng của sự nghiệp phát triển bền vững đất nước và hội
nhập quốc tế. Vì vậy, để phát triển vùng Tây Nam Bộ, việc lấy con người
làm trung tâm, hướng đến phục vụ người dân, giảm khoảng cách giàu nghèo,
chú trọng về chất lượng hơn số lượng, chuyển từ chiều rộng sang chiều
sâu, tiếp cận chủ động, linh hoạt trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn
ra nhanh, ngày càng cực đoan với quy mô lớn là
một nhận thức đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Việc thực hiện chủ trương,
chính sách trên góp phần giảm tình trạng nghèo đói của các dân tộc ở
vùng Tây Nam Bộ từ 36,3% năm 1998 xuống còn 12,6% năm 2010 và tiếp tục
giảm còn 5,2% vào năm 2016; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ
8,6% vào năm 2016 xuống 5,8% năm 2018(5). Chất lượng giáo
dục, trình độ của người dân ngày càng tiến gần mức trung bình chung của
cả nước. Năm 2019, số năm đi học bình quân của người dân Tây Nam Bộ đạt
7,1 năm (trung bình cả nước đạt 9 năm), tỷ lệ dân số từ 5 tuổi trở lên
biết chữ đạt 94,2% (trung bình cả nước là 95,8%)(6). Chỉ số
phát triển con người (HDI) trong vùng được nâng lên. Điều này cho thấy,
các chính sách phát triển bền vững đối với vùng Tây Nam Bộ đã phát huy
tác dụng tích cực.
Hai
là, vai trò, trách nhiệm xã hội, đạo đức nghề nghiệp của các cá nhân,
tổ chức trong xây dựng, thực thi và đánh giá các chủ trương, chính sách
phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ.
Với phương châm chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn;
phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ vì lợi ích chung của đất nước, tiểu
vùng sông Mê-kông và quốc tế; là sự nghiệp của toàn dân, khuyến khích,
huy động tất cả các tầng lớp, thành phần xã hội, các đối tác quốc tế và
doanh nghiệp tham gia vào quá trình phát triển, sự lựa chọn mô hình
thích ứng theo tự nhiên, thân thiện với môi trường là hướng đi đúng đắn.
Tuy
nhiên, quá trình tổ chức thực thi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước gặp phải không ít khó khăn do thiếu nguồn lực. Phần lớn các bộ,
ngành, địa phương không bố trí đủ nguồn lực hoặc nguồn lực phân tán,
chồng chéo. Bên cạnh đó, công tác tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế,
yếu kém. Năng lực của đội ngũ cán bộ địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở
không đồng đều. Tác phong lao động, ý thức tổ chức kỷ luật còn thấp dẫn
đến tổ chức thực hiện chính sách chưa đúng, hiệu quả chưa cao. Mức thu
nhập của đội ngũ cán bộ ở các cơ quan nhà nước thấp cũng là một rào cản
trong thu hút người có năng lực chuyên môn tốt; đồng thời, làm giảm động
lực làm việc của nhiều cán bộ, công chức.
Nhiều
chủ trương, chính sách không phù hợp với thực tiễn địa phương nhưng lại
chậm được điều chỉnh. Việc sơ kết, tổng kết, kiểm tra và đánh giá chủ
trương, chính sách thường tiến hành chậm, làm ảnh hưởng đến tiến độ sửa
đổi, bổ sung, xây dựng chủ trương, chính sách cho giai đoạn mới. Chất
lượng sơ kết, tổng kết còn bộc lộ những hạn chế, chưa phản ánh hết thực
trạng tình hình thực hiện chủ trương, chính sách ở địa phương. Trong quá
trình đánh giá, còn thiếu cơ chế đánh giá độc lập, đa số chủ trương,
chính sách vẫn áp dụng người thực hiện đồng thời là người đánh giá. Vì
vậy, tình trạng chủ quan, thiếu minh bạch vẫn còn diễn ra.
Việc
xây dựng, thực thi và đánh giá các chủ trương, chính sách chịu sự tác
động, chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, cả chủ quan và khách quan,
trong đó có nhân tố văn hóa vừa có ảnh hưởng tích cực, vừa có ảnh hưởng
tiêu cực đến việc xây dựng, thực thi và đánh giá chủ trương, các chính
sách phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ.
Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc, thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời (tỉnh
Cà Mau) - Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. (Nguồn: baodantoc.vn)
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA TRONG CÁC CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG TÂY NAM BỘ
Để nâng cao vai trò của văn hóa trong các chủ trương, chính sách phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ, trong thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Một là, phát huy văn hóa sinh kế trong đời sống kinh tế cho cư dân Tây Nam Bộ trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Sinh
kế là một vấn đề không chỉ liên quan đến tổng mức thu nhập mà liên quan
nhiều đến tri thức bản địa, phong tục, tập quán, thói quen, tính cộng
đồng, việc lựa chọn nghề, cách thực hành nghề - đó có thể gọi là “văn
hóa sinh kế”. Với người dân vùng Tây Nam Bộ, do thiên nhiên ưu đãi trồng
trọt, nghề nông đã gắn với họ từ hàng trăm năm nay và hình thành tâm lý
“phi nông bất ổn”. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, nước biển dâng và
hạn hán, nghề nông đang trở thành lựa chọn nhiều rủi ro, tuy nhiên, để
chuyển đổi nghề thì rào cản đầu tiên chính là văn hóa sinh kế từ bao
đời. Nhìn rõ rào cản này, các chủ trương, chính sách cần quan tâm đặc
biệt đến thay đổi văn hóa sinh kế bằng cách tạo công ăn việc làm mới
trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu kinh tế bền vững, tạo điều kiện để người
nông dân Tây Nam Bộ có nghề nghiệp, thu nhập ổn định. Đây được xem là
một giải pháp quan trọng để nâng cao đời sống của người dân Tây Nam Bộ,
tạo cơ sở cho phát triển bền vững.
Hai
là, nâng cao chất lượng văn hóa - giáo dục, duy trì các hình thức giáo
dục truyền thống, tạo cơ hội để người dân tiếp cận các hình thức giáo
dục mới.
Chất
lượng giáo dục ở Tây Nam Bộ, nhất là ở vùng nông thôn còn nhiều hạn
chế. Về lâu dài, giáo dục là con đường cơ bản nhất để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. Vấn đề cấp thiết hiện nay là các địa phương vùng
Tây Nam Bộ cần tập trung đầu tư mạnh hơn nữa cho sự nghiệp giáo dục, đào
tạo nhằm nâng cao trình độ dân trí, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực,
đặc biệt là đối với các nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội. Sự tụt hậu
về giáo dục là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch về nhận
thức chính trị, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội giữa các
dân tộc trong vùng, giữa các khu vực trong vùng Tây Nam Bộ và giữa vùng
Tây Nam Bộ với các vùng, miền khác trong cả nước. Ở chiều ngược lại,
nhận thức chính trị, văn hóa thấp lại là một trong những nguyên nhân dẫn
đến sự tụt hậu của giáo dục, đào tạo. Nâng cao nhận thức về giá trị văn
hóa các dân tộc vùng Tây Nam Bộ sẽ góp phần tạo sự đồng thuận và có khả
năng huy động được các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội,
bảo vệ môi trường, quốc phòng - an ninh vùng Tây Nam Bộ.
Ba là, phát triển văn hóa cơ sở.
Thiết
chế văn hóa thông tin cơ sở là một bộ phận rất quan trọng trong thiết
chế văn hóa thông tin của cả nước, là công cụ tuyên truyền, vận động sắc
bén, sâu rộng tại cơ sở của Đảng, Nhà nước, là nơi hưởng thụ, sáng tạo,
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam. Do vậy, các
chủ trương, chính sách phát triển bền vững vùng cần quan tâm đến việc
phát triển văn hóa cơ sở, trong đó chú trọng bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ, nâng cao năng lực cho cán bộ phụ trách văn hóa ở cấp cơ sở
(cấp xã, thôn, ấp và tương đương). Đồng thời, trong các hoạt động định
hướng phát huy văn hóa cơ sở, cần chú ý đến thực hành văn hóa hằng ngày,
trong đó, đặc biệt chú trọng thực hành văn hóa mang bản sắc của cộng
đồng các dân tộc Tây Nam Bộ. Cụ thể là, các thực hành văn hóa đờn ca tài
tử, các hoạt động nghi lễ đền, miếu, các thực hành nghệ thuật và nghệ
thuật Phật giáo Nam tông của người Khmer, các lễ hội, tín ngưỡng và
phong tục của người Việt.
Bốn là, tôn trọng tính đa dạng văn hóa nhằm củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc vùng Tây Nam Bộ.
Tây Nam Bộ là khu vực có nhiều dân tộc sinh sống, vì vậy, tạo sự tin cậy, gắn kết lẫn nhau giữa cộng đồng các dân tộc Kinh, Khmer,
Chăm, Hoa…, giữa các tôn giáo, giai cấp và tầng lớp trong xã hội là cơ
sở vững chắc để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc trong
vùng. Cơ sở quan trọng tạo sự gắn kết chính là tôn trọng tính đa dạng
văn hóa của các dân tộc, xóa bỏ những định kiến lạc hậu về văn hóa của
mỗi dân tộc.
Năm là, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa đặc sắc của vùng Tây Nam Bộ.
Tây
Nam Bộ chứa đựng nhiều di sản văn hóa đặc sắc, có giá trị biểu tượng
cho văn hóa vùng cũng như văn hóa quốc gia. Bảo tồn giá trị các di sản
văn hóa là nhiệm vụ của người dân, các cấp chính quyền. Cần thực hiện
tốt chính sách giữ gìn và phát huy giá trị các di sản văn hóa đã được Tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), được
quốc gia, được tỉnh ghi danh, như nghệ thuật đờn ca tài tử, lễ hội cúng
biển Mỹ Long, lễ Vu lan thắng hội (lễ hội cúng ông Bổn Cầu Kè), các chùa
Khmer Nam tông, nghệ thuật Chầm Riêng Chà Pây, lễ hội Ok Om Bok, Chol
Chnam Thmay và lễ hội Sen Đôn ta, lễ hội cúng Neak Tà, nghệ thuật sân
khấu Rô băm, lễ hội thờ Ngũ vị nương nương và lễ hội thờ Thiên Hậu, các
ngôi nhà cổ ở Đồng Tháp, Cần Thơ; chợ nổi Cái Răng và các chợ nổi khác,
lễ Nghinh Ông và tục thờ cúng Quan Âm Nam Hải... Đối với các loại hình
nghệ thuật có lịch sử hình thành và phát triển gắn với đặc thù vùng đất
Nam Bộ, những sáng tạo văn hóa của người dân Tây Nam Bộ, như nghệ thuật
sân khấu Dù kê của người Khmer Nam Bộ, Nhà nước cần tiếp tục có chính
sách ưu tiên xây dựng hồ sơ di sản trình UNESCO công nhận di sản văn hóa
phi vật thể của nhân loại. Đây vừa là hình thức bảo tồn di sản văn hóa
đặc sắc vùng, vừa quảng bá, phát huy giá trị di sản trong phát triển bền
vững vùng gắn kết với du lịch địa phương.
Hội đua bò Bảy Núi của đồng bào Khmer Nam Bộ được tổ chức vào dịp lễ Dolta. (Ảnh: Tư liệu)
Sáu là, xây dựng văn hóa ứng xử hài hòa với môi trường.
Để phát triển bền vững cần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái
cho chính quyền và cộng đồng người dân ở Tây Nam Bộ. Trong đó, cần nhấn
mạnh đến thực tế hiện nay, việc tàn phá tự nhiên vô ý thức, hoạt động
kinh tế nông nghiệp theo hướng sử dụng hóa chất, thuốc trừ sâu, việc
đánh bắt thủy, hải sản trong và ven bờ theo lối tận diệt đang là vấn đề
cần quan tâm. Vì vậy, cần nhanh chóng khắc phục tình trạng suy thoái,
đồng thời với bảo vệ, cải thiện và phục hồi, tái tạo tài nguyên thiên
nhiên và môi trường sống, bảo vệ các loại động vật, thực vật đặc trưng
của sông nước, biển cả Tây Nam Bộ. Các chủ trương, chính sách phát triển
bền vững vùng cần phát huy vai trò của tri thức bản địa trong việc nâng
cao hiệu quả tác động của văn hóa đối với bảo vệ môi trường. Sự kết hợp
giữa tri thức bản địa và tri thức khoa học được xem là giải pháp hữu
hiệu trong xây dựng chiến lược thích ứng biến đổi khí hậu, bởi tri thức
bản địa vốn là những kinh nghiệm tích lũy từ lâu đời, được người dân đúc
rút và thực hành tại một vùng nhất định. Vì thế, nó có thể là những
biện pháp kỹ thuật, kiến thức ứng phó hữu ích cho chính cộng đồng đối
với vấn đề biến đổi khí hậu diễn ra tại địa phương./.
PGS. TS. Phạm Tiết Khánh
Trường Đại học Trà Vinh
__________________
(1) (6) Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương: Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 1/4/2019, Nxb. Thống kê, H, 2019, tr.54, 127.
(2) Ủy ban Dân tộc - Tổng cục Thống kê: Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb. Thống kê, H, 2020, tr.135-136.
(3) Ngô Văn Lệ: Nghiên cứu tộc người và văn hóa tộc người - tiếp cận nhân học phát triển, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2017.
(4) VCCI - Fulbright: Báo cáo kinh tế thường niên đồng bằng sông Cửu Long 2020.
(5) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Quyết định công bố kết quả rà soát hộ nghèo, cận nghèo năm 2018, 2019 (Quyết định số 1052/QĐ-LĐTBXH ngày 29/7/2019 và Quyết định số 835/QĐ-LĐTBXH ngày 15/7/2020).
(Nguồn: tapchicongsan.org.vn)