Một tháng rưỡi sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi một bức thư đầy tâm
huyết tới Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (đăng báo Cứu
quốc, số 69, ngày 17/10/1945). Bức thư ngắn nhưng Người gửi gắm vào đó
nhiều điều.
Trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và
làng(1), Bác bày tỏ sự quan tâm về mối quan hệ giữa Chính phủ và người
dân. Ðây là mối quan hệ gắn kết khăng khít: “Nếu không có nhân dân thì
Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không
ai dẫn đường”. Trong thời Trần vẻ vang oanh liệt nhưng Trần Quốc Tuấn
nhìn ra được gốc rễ vấn đề mà bảo: Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận,
cả nước gắng sức, khoan thư sức dân để làm kế rễ sâu bền gốc - đó là
thượng sách giữ nước. Nguyễn Trãi thì cho rằng, chở thuyền và lật thuyền
đều do dân. Trong thư này, Bác viết: “nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Với Chính
phủ, Bác viết: “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các
làng, đều là công bộc của dân... Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức
làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Ðó là Chính phủ “công
bộc”, Chính phủ phục vụ.
Bác
đã thấy từ rất sớm những tiêu cực. Bác nêu lên tiêu cực của một số cán
bộ, chỉ ra rằng những người đó “phạm những lầm lỗi rất nặng nề”. Người
kể ra sáu lầm lỗi chính: 1. Trái phép; 2. Cậy thế; 3. Hủ hóa; 4. Tư
túng; 5. Chia rẽ; 6. Kiêu ngạo.
Trái phép là cứ bắt bớ và
tịch thu vì tư thù tư oán. Cậy thế là cậy mình là người trong bộ máy rồi
ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ
tới dân. Hủ hóa là ở chỗ, ngày càng xa xỉ trong ăn uống tiêu pha, sử
dụng của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Tư túng là
bởi vì việc công chứ không phải việc riêng mà kéo bè kéo cánh trong công
tác cán bộ. Chia rẽ là bởi không đoàn kết để chống kẻ thù chung mà lại
bênh lớp này chống lớp kia. Kiêu ngạo là bởi vì coi mình là thần thánh,
lúc nào cũng “vác mặt quan cách mạng” lên, vừa mất lòng tin đối với dân,
vừa không giữ được uy tín cho chính phủ. Muốn làm tròn trách nhiệm, bổn
phận “công bộc” của dân như Bác Hồ căn dặn, mỗi cán bộ phải có quan
điểm phục vụ vì dân, tác phong công tác gần gũi với tinh thần tôn trọng
nhân dân. Và “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính
ta”. Cán bộ muốn lãnh đạo phải gần dân, lắng nghe và thấu hiểu lòng dân
để đề ra chủ trương, chính sách phù hợp.
Bức thư chứa đựng những
lời tâm huyết của Bác: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết
sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi
trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã
phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa
chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung”.
Kết thúc Thư gửi Ủy
ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Bác viết: “Vì hạnh phúc của
dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu
những chữ “công bình, chính trực” vào lòng”.
Ngay
từ những ngày đầu của chính thể Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã kiên quyết đấu tranh chống lại những tiêu cực dễ mắc trong
bộ máy nhà nước - càng dễ mắc hơn khi cán bộ và nhân dân ta mới giành được
chính quyền, hoàn toàn chưa có kinh nghiệm quản lý nhà nước. Ðó là bệnh
quan liêu, tham ô, lãng phí, tệ “quan cách mạng” nhũng nhiễu nhân dân ở
các địa phương.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi tham ô, lãng phí,
quan liêu là “giặc nội xâm”, thứ giặc ở trong lòng, nguy hiểm hơn giặc
ngoại xâm. Lòng tin quý hơn vàng. Mất lòng tin là mất tất cả. Xây dựng
lòng tin, xây dựng thế trận lòng dân trước hết bắt đầu từ bản thân Ðảng,
từ những cán bộ, đảng viên, những người trong hệ thống chính trị. Ðảng,
cán bộ, đảng viên phải “sẵn sàng, vui vẻ” làm “đày tớ”, làm “công bộc”
cho dân.
Ngay từ khi bắt đầu xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa non trẻ, với tư cách người đứng đầu Chính phủ của nhân dân, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tới việc phải đấu tranh loại trừ tệ mất
dân chủ, độc đoán chuyên quyền, đặc quyền đặc lợi của những ông “quan
cách mạng”.
Trước đó, ngày 17/9/1945, Người đã có Thư gửi các
đồng chí tỉnh nhà (Nghệ An) với tư cách một người đi trước tâm sự với
những người đi sau cùng chí hướng: “Công việc phá hoại xong rồi. Nay
bước đầu công việc dọn dẹp, sắp đặt, giữ gìn, kiến thiết. À! Việc này
mới khó chứ!”(2), trước khi chỉ ra những khuyết điểm cần tránh. Sau này,
Người còn nhiều lần nhắc lại chủ đề đó trong các cuộc họp, trên mặt báo
và tiến hành cuộc đấu tranh đó trong thực tiễn. Tháng 10/1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh trả lời trước kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I: “Chính phủ đã
hết sức làm gương và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà
trị những kẻ ăn hối lộ-đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết”(3).
Ðọc
lại Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng vào thời điểm
này, vẫn nguyên tính thời sự. Là bởi, những tiêu cực như trong bức thư
của Bác nêu năm 1945 vẫn còn nhiều. Vẫn có một số người “vác mặt quan
cách mạng” đi ức hiếp dân lành.
Văn
kiện Ðại hội XIII đánh giá: “vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với
làm; không tuân thủ nguyên tắc của Ðảng; quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, bè phái, gây mất đoàn kết nội
bộ; chưa nêu cao ý thức trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa
phương và nhân dân. Thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên chưa trở thành nền nếp, hiệu quả chưa cao”(4). Phải làm
sao để những “công bộc” từ bỏ đặc quyền đặc lợi, phục vụ nhân dân, cống
hiến cho cách mạng thật tận lực, góp phần cho đất nước hùng cường.
Trong
những năm tới, Ðảng quyết tâm “Ðẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm
cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình,
luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật
chất, tiền tài, danh vọng; đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ, bè phái, mất đoàn kết
nội bộ. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời,
thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của
người đảng viên”(5).
Gần đây nhất, ngày 3/8, tại phiên họp Chính
phủ thường kỳ tháng 7/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh một
trong “ba tăng cường” khi thực hiện điều hành phát triển kinh tế - xã hội.
Ðó là tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hệ thống hành chính. Ðây là nỗ
lực trong thực tiễn góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xây dựng
Ðảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Ðiều này cũng là công việc hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân. Những vấn đề Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặt ra từ rất sớm khi chăm lo nâng cao phẩm chất và năng lực của
đội ngũ cán bộ cũng như cung cách hoạt động của bộ máy chính quyền mới
cho đến nay vẫn mang nhiều giá trị thực tiễn./.
Mạch Quang Thắng (nhandan.vn)
_______________________________
(1) (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.4, tr.64-66, 19.
(3) Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 - 1960, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1994, tr.98.
(4)
(5) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II,
tr.178-179, 237.