1. Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, trong bối cảnh tiếp tục đổi mới và hội nhập sâu rộng với thế giới, VHNT Việt Nam tiếp tục phát triển và đạt được những thành tựu nhất định, cơ bản bám sát thực tiễn đất nước, tinh thần dân tộc, sáng tạo các giá trị thẩm mỹ, nhân văn phong phú, đa dạng, góp phần xây dựng con người Việt Nam thời kỳ mới. Các giá trị mới vẫn đang tiếp tục vận động và phát triển, ở trong tình trạng chưa định hình rõ ràng, chưa được nhận thức, lý giải và tiếp nhận đầy đủ, thực sự đúng đắn. Sự vận động, phát triển của VHNT Việt Nam hiện nay đặt ra những vấn đề chưa từng có tiền lệ trong lịch sử.
VHNT vận động và phát triển trong những bối cảnh lịch sử, văn hóa nhất định. Các khuynh hướng vận động và phát triển của VHNT ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể là kết quả tổng hợp của hàng loạt những nhân tố ngoại sinh và nội sinh phức tạp. Việc nghiên cứu, nhận diện các khuynh hướng vận động và phát triển của VHNT Việt Nam hiện nay không tách rời nhiệm vụ nhận diện, phân tích kỹ lưỡng các nhân tố căn bản tác động đến sự vận động đó. Đây là vấn đề quan trọng nhưng các công trình nghiên cứu về VHNT trước đây chưa quan tâm đúng mức.
Nghiên cứu, nhận diện thực tiễn vận động và phát triển VHNT là yêu cầu cấp thiết, thường xuyên, nhằm thiết lập cơ sở khoa học để điều chỉnh, phát triển, hoàn thiện tư duy lãnh đạo, chỉ đạo đối với lĩnh vực nhạy cảm, rất quan trọng và tinh tế này, nhằm cung cấp các luận cứ khoa học, tạo lập cơ sở lý luận và thực tiễn để tư vấn cho Đảng, Nhà nước những giải pháp hiệu quả nhằm tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của VHNT Việt Nam trong thời kỳ mới - một thời kỳ ảnh hưởng sâu sắc bởi khoa học công nghệ 4.0, không chỉ tác động mạnh mẽ tới các ngành, lĩnh vực sản xuất - tự động hóa, giao thông, tài chính - ngân hàng, giáo dục, y tế, nông nghiệp, dịch vụ... mà còn tác động mạnh đến tâm tư, tình cảm con người.
Sau mỗi chặng 5 năm của tiến trình đổi mới, đã có một số đề tài, công trình, hội thảo khoa học tổng kết VHNT thời kỳ đổi mới nhưng chủ yếu tập trung đánh giá thành tựu, đúc rút kinh nghiệm và những vấn đề lý luận phục vụ cho mục đích nghiên cứu và giảng dạy, chủ yếu thiên về mô tả, nắm bắt các các sự kiện, tác giả, tác phẩm ở từng loại hình VHNT riêng lẻ. Ở cấp độ các công trình, tiểu luận độc lập hiện nay, các nhà nghiên cứu đã cố gắng nắm bắt bức tranh tổng thể của đời sống VHNT Việt Nam cũng như tổng kết sự vận động, phát triển ở từng lĩnh vực nghệ thuật cụ thể.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ là nỗ lực bước đầu nhằm nhận diện sự vận động, phát triển của VHNT Việt Nam hiện nay, trong đó chủ yếu dừng ở mức độ mô tả các hiện tượng. Mặt khác, những phân tích, đánh giá còn mang tính chất cục bộ, giới hạn trong một số ngành nghệ thuật cụ thể, chưa khái quát được những khuynh hướng vận động chiều sâu để từ đó nắm bắt bản chất của sự vận động và phát triển hiện nay.
Ở các nước phương Tây, đặc biệt là châu Âu và Mỹ, từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay đã chứng kiến những cuộc cách mạng lớn trong VHNT. Từng ngành nghệ thuật cụ thể đã có những phát triển quan trọng từ bản chất thẩm mỹ và vai trò của hình thức nghệ thuật. Hàng loạt các lý thuyết ra đời và phát triển song hành cùng quá trình cách tân nghệ thuật.
Ở Việt Nam, từ sau năm 1986 đến nay, sự giao lưu, tiếp thu các giá trị VHNT nước ngoài cũng được đẩy mạnh ở phương diện giới thiệu và tiếp nhận các tác phẩm, trào lưu sáng tác cụ thể. Sự tiếp thu các tư tưởng VHNT nước ngoài ở Việt Nam hiện nay là một trong những tác nhân trực tiếp tạo ra diện mạo đa dạng, phong phú, phức tạp trong đời sống VHNT Việt Nam.
2. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là bối cảnh thuận lợi, là động lực căn bản của sự vận động, phát triển VHNT Việt Nam từ sau năm 1986 đến nay. Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước với hàng loạt chính sách mang tính chuyển hướng chiến lược với bản lĩnh nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đối mặt với quá khứ trên tinh thần nghiêm túc, khách quan, khoa học để đúc rút những bài học lịch sử là nền tảng quan trọng của nội hàm đổi mới. Trên lĩnh vực sáng tác VHNT, hàng loạt tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, tác phẩm âm nhạc, sân khấu mới ra đời đã ngay lập tức trở thành tâm điểm của các nhà phê bình, thu hút được sự quan tâm của dư luận; tạo nên những cuộc tranh luận trên bình diện lý luận, dần xác lập môi trường sáng tạo, tiếp nhận mới đối với VHNT Việt Nam thời kỳ đầu đổi mới và tiếp tục ảnh hưởng, chi phối sự vận động, phát triển của VHNT Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI đến nay.
Một yếu tố rất quan trọng của thời kỳ đổi mới, đó là sự thay đổi chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường, tạo bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường là bước đột phá, xác lập một bối cảnh, cơ chế văn hóa hoàn toàn khác biệt so với thời kỳ chiến tranh và thời kỳ bao cấp, tác động mạnh, tạo lập không gian dân chủ, kích thích và từng bước hình thành sự đa dạng trong sáng tạo và tiếp nhận VHNT, chuyển đổi mạnh mẽ theo hướng giảm đề tài sử thi, đánh thức niềm đam mê, sức sống và định hình vị thế mới của đề tài thế sự và đời tư, thân phận con người.
Chuyển từ “cấu trúc văn hóa” của thời chiến sang thời bình, khi dư âm chiến thắng, lý tưởng, hoài bão... dần nhường chỗ cho những lo toan về đời sống vật chất, mưu sinh, cũng đồng thời là sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên tinh thần nhân bản. Nền kinh tế thị trường đã dần phá vỡ những bó buộc đối với cái tôi cá nhân trên bình diện văn hóa. Từ đây, bên cạnh “cái ta”, VHNT ngày càng quan tâm thích đáng đến “cái tôi”, không chỉ phản ánh những cái tất nhiên mà còn cả ở những cái ngẫu nhiên, hiện thực đa chiều, nhiều tầng lớp, không phải chỉ có con người xã hội mà còn có cả con người bản năng và con người tâm linh, con người với những chiều sâu bí ẩn của vô thức, trực giác với những diễn biến tâm - sinh lý phức tạp.
Bên cạnh đó, công cuộc hội nhập quốc tế như là một ngã rẽ, một sản phẩm tất yếu của đổi mới, tác động đến đời sống VHNT trên nhiều bình diện, trong đó đáng chú ý nhất là sự tiếp thu ngày càng đa dạng các tư tưởng triết học - mỹ học thế giới từ cổ đại đến đương đại, đặc biệt là từ phương Tây.
Trên lĩnh vực lý luận, sự tiếp thu tư tưởng VHNT nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua đã tạo điều kiện thuận lợi, làm phong phú và đa dạng cho những tư tưởng xuất hiện trong đời sống văn nghệ, ra khỏi tình thế “độc tôn - đơn tuyến”, để nhanh chóng chuyển sang tình thế đa phương, đa dạng về lý thuyết. Đến nay phần lớn các lý thuyết nghệ thuật trên thế giới ra đời trong thế kỷ XX đều đã được biết đến, được vận dụng phổ biến, ít nhiều có chỗ đứng ở Việt Nam. Ở lĩnh vực văn học, các lý thuyết cùng lúc hiện diện, phát huy ảnh hưởng tạo nên một sự cộng sinh lý thuyết trong đời sống văn nghệ Việt Nam. Ở các lĩnh vực nghệ thuật khác như mỹ thuật, điện ảnh, nhiếp ảnh, âm nhạc, kiến trúc… tuy sự du nhập về lý thuyết có vẻ như không sôi động bằng văn học nhưng từ thực tiễn cũng có thể nhận diện được nhiều khuynh hướng tìm tòi, nhiều quan điểm nghệ thuật mới đang phát huy ảnh hưởng và tác động to lớn, góp phần mở rộng biên độ tư duy, mở rộng phương pháp với cách tiếp cận, tăng cường khả năng nhận thức, lý giải các hiện tượng VHNT, làm phong phú đời sống lý luận văn học, nghệ thuật của đất nước.
Công cuộc hội nhập quốc tế gắn liền với sự tiếp cận cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, trong đó nổi bật là cuộc cách mạng thông tin với vai trò ngày càng quan trọng của Internet. Cuộc cách mạng này đã làm thay đổi về căn bản mối quan hệ truyền thống của các nền văn hóa, rút ngắn không chỉ khoảng cách địa lý, mà san phẳng rào cản, ranh giới hiện hữu, khiến cho các hiện tượng VHNT nhanh chóng được tiếp nhận trên phạm vi toàn cầu.
Thành tố quan trọng khác của thời kỳ đổi mới là sự đổi mới tư duy, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với VHNT. Sự đổi mới tư duy lãnh đạo văn nghệ của Đảng từ năm 1986 đã đáp ứng sự vận động tất yếu của thực tiễn đời sống trở thành một nhân tố tích cực của VHNT.
Trong các văn kiện của Đảng về văn nghệ, Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” (năm 2008) có vai trò đặc biệt, là nghị quyết chuyên đề đầu tiên, tương đối toàn diện về VHNT; khẳng định phải tiếp tục quán triệt và thực hiện 5 quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Cùng với Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X, Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (năm 2014) đã khẳng định chủ trương, quan điểm nhất quán của Đảng về những vấn đề căn bản của VHNT, tạo động lực cho sự phát triển các khuynh hướng văn nghệ theo hướng đa dạng.
Lý luận, phê bình VHNT Việt Nam đã có những sự phát triển hầu hết ở các lĩnh vực từ văn học đến các ngành nghệ thuật. Trong các lĩnh vực văn học, sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, múa, mỹ thuật, âm nhạc… hoạt động lý luận, phê bình VHNT đã có những đóng góp, phát huy tác dụng tích cực trong đời sống, được các chuyên gia về VHNT và công chúng ghi nhận, góp phần khẳng định giá trị định hướng hoạt động sáng tạo và tiếp nhận VHNT của nước ta, đặc biệt từ đầu thế kỷ XXI đến nay.
Trong đội ngũ lý luận, phê bình VHNT, các nhà nghiên cứu đồng nhất quan điểm cho rằng có sự phân bố không đồng đều về chất lượng và số lượng. Nếu chất lượng và số lượng lý luận, phê bình trong văn học và báo chí thể hiện sự vượt trội vì đặc thù đào tạo và truyền thống chuyên ngành thì trong các ngành nghệ thuật khác như sân khấu, mỹ thuật, âm nhạc, điện ảnh, nhiếp ảnh, múa, kiến trúc... với ngôn ngữ có tính đặc thù, ít đại chúng hơn nên chất lượng và số lượng công trình lý luận, phê bình tác phẩm càng ít hơn.
Dễ dàng nhận thấy là hoạt động lý luận về cơ bản có nhiều thuận lợi hơn lĩnh vực phê bình trong VHNT. Phê bình VHNT gặp khó khăn không chỉ là số lượng ít các cây bút phê bình VHNT dám dấn thân, mà thực tế, hoạt động phê bình trong lĩnh vực VHNT chưa thực sự có một truyền thống hoặc nền tảng, tâm lý khen-chê còn ràng buộc bởi truyền thống không dám nói thẳng, nói thật do sợ bị mất lòng, thậm chí, trong xã hội hiện nay, việc phê bình dù đúng đến đâu cũng khó có thể không bị xúc phạm bởi “cộng đồng mạng” với vũ khí “ném đá”, “đánh hội đồng”... Sức sáng tạo mang tư duy cũ, tư duy bao cấp không còn phù hợp với cơ chế thị trường bởi tính cạnh tranh cao và đổi mới liên tục.
Qua các nghiên cứu cho thấy, tiếp nhận VHNT qua hai con đường: lý luận và thực tiễn, trong đó có ba hướng tiếp nhận VHNT cơ bản là tác giả, văn bản và văn hóa. Kể từ khi ngành văn hóa học phát triển, một cách tiếp nhận VHNT được sử dụng tương đối rộng rãi trong giới chuyên môn là tiếp nhận VHNT từ góc độ văn hóa. Hướng tiếp nhận này được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và văn hóa.
Thực tiễn phát triển VHNT thời gian qua có thể thấy có 3 khuynh hướng chủ đạo trong văn học, nghệ thuật ở Việt Nam: 1) Khuynh hướng kế thừa, phát triển truyền thống; 2) Khuynh hướng cách tân hình thức; 3) Khuynh hướng thị trường. Các khuynh hướng này, tùy theo mức độ, ảnh hưởng và hiệu quả đã có những đóng góp đáng kể đối với sự phát triển VHNT. Tuy nhiên trong các khuynh hướng đều có những ưu và khuyết riêng tùy theo khả năng và hoàn cảnh sử dụng.
3. Xu hướng đa dạng hóa diễn ra ngày càng mạnh, có thể dẫn đến việc hình thành các trường phái, các nhóm có quan niệm nghệ thuật khác nhau. Nguy cơ đứt gãy với truyền thống và xa rời cốt cách, bản sắc dân tộc có thể xảy ra, nếu không có sự chuẩn bị đội ngũ kế cận về sáng tác, lý luận, phê bình, biểu diễn, lãnh đạo và quản lý.
Việc nghiên cứu sự vận động và phát triển của VHNT hiện nay như là sản phẩm tất yếu của sự vận động của bối cảnh lịch sử, văn hóa cần phải được đặt ra, cắt nghĩa, lý giải khoa học, để từ đó đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục phát triển lĩnh vực này trong thời gian tới.
|
Thị trường còn tiếp tục tác động ngày càng mạnh, nếu quản lý không phù hợp, khuynh hướng thương mại hóa sẽ diễn biến phức tạp, tinh vi hơn nhiều trong những năm tới, thậm chí có thể làm phương hại đến những quan điểm của Đảng đối với sự phát triển nền văn nghệ Việt Nam trong thời kỳ mới.
Do tác động trực tiếp của quá trình hội nhập quốc tế, sự thâm nhập ngày càng mạnh và sâu sắc của các xu hướng, trào lưu văn hóa, văn nghệ nước ngoài vào nước ta đã, đang và sẽ tạo ra những biến đổi phức tạp trong đời sống văn nghệ. Từ đó, có khả năng xảy ra cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng, đó là khuynh hướng nỗ lực hiện đại hóa văn nghệ Việt Nam trên cơ sở giữ vững, phát huy và phát triển bản sắc dân tộc; khuynh hướng học đòi, bắt chước, lai căng, vọng ngoại, chạy theo thời thượng, coi thường và đánh mất bản sắc, đặc trưng dân tộc của văn nghệ, đồng thời cả khuynh hướng bảo thủ, trì trệ, không theo kịp sự phát triển của lý luận và thực tiễn nghệ thuật thời kỳ mới.
Trong cơ chế thị trường, tác phẩm VHNT cũng là một dạng hàng hóa đặc biệt, đặc thù, chứa đựng đầy đủ các thuộc tính của hàng hóa. Vì vậy, VHNT phải chịu sự chọn lựa khắc nghiệt của công chúng, sự chi phối của quy luật “cung - cầu” của thị trường. Để sản phẩm VHNT thu hút được công chúng thì việc nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của công chúng là điều tất yếu.
Trong bối cảnh cách mạng công nghệ lần thứ tư hiện nay, nhiều giá trị được nhìn nhận lại, đánh giá lại khi đặt trong tổng thể của sự so sánh các giá trị khác nhau của thế giới. Mặc dù có nhiều luồng, nhiều xu hướng VHNT được du nhập - tiếp thu hoặc xuất hiện ở Việt Nam, nhưng trong sự phát triển đa dạng đó, thì VHNT Việt Nam thời gian qua về cơ bản vẫn là chủ nghĩa yêu nước và nhân văn nắm giữ dòng chủ đạo, gắn bó sâu sắc với vận mệnh của dân tộc và đất nước, phản ánh chân thực cuộc đấu tranh cách mạng, công cuộc lao động sáng tạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân.
Chủ nghĩa nhân văn, tinh thần dân tộc, tính nhân đạo, lòng khoan dung trong VHNT luôn được phát huy và đề cao, trong đó thể hiện những nỗ lực cố gắng tìm tòi, phát hiện, nêu gương các nhân tố mới, tính dấn thân, dũng cảm nhìn vào sự thật, phát hiện những vấn đề nóng bỏng, bức xúc, khám phá và quan tâm đến thân phận con người, đấu tranh, lên án cái ác, cái xấu, phê phán sự tha hóa về nhân cách, sự biến chất về đạo đức và lối sống của con người.
Đề tài về các dân tộc thiểu số trong VHNT luôn được quan tâm khai thác, là suối nguồn cảm hứng phong phú, đa dạng, vừa góp phần giữ gìn tính đa dạng các biểu đạt văn hóa, vừa tiếp tục khẳng định sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Ngoài các chức năng cơ bản, mang tính truyền thống, chức năng giải trí của VHNT trong điều kiện tự do sáng tạo đã góp phần làm phong phú và đa dạng về nội dung, phong cách, phương thức biểu hiện trong các tác phẩm VHNT thời gian gần đây.
Theo định hướng, quan điểm chỉ đạo của Đảng, thông qua các nghị quyết luôn khẳng định, phải tiếp tục quán triệt và thực hiện các quan điểm chỉ đạo về văn hóa. Trong lĩnh vực VHNT, cần nhấn mạnh và bổ sung 3 quan điểm gắn với đặc trưng, đặc thù của lĩnh vực đặc biệt tinh tế này, trong đó phải ý thức sâu sắc rằng, VHNT không chỉ là nhu cầu thiết yếu của con người mà chính là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và là mục tiêu sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam.
Trong không gian mở và không ngừng kết nối, tranh luận không ngừng, mỗi cá nhân đều có thiên hướng và khả năng trở thành công dân toàn cầu. |
Để VHNT với khát vọng hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng định hướng, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao và đa dạng của nhân dân thì sự phát triển VHNT cần được quan tâm để trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng trong văn hóa, văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế như một lực lượng quan yếu trong xã hội phát triển và hội nhập hiện nay./.
TSKH. Phan Đình Tân
Phó Chủ tịch chuyên trách
Hội đồng Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương