THỰC TRẠNG FDI TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Các
biện pháp đóng cửa, giãn cách xã hội tại nhiều quốc gia trên thế giới
để đối phó với đại dịch COVID-19 đã làm chậm lại các dự án đầu tư hiện
có, nguy cơ của một cuộc suy thoái khiến các công ty đa quốc gia (MNC)
phải xem xét lại các dự án mới. Chịu ảnh hưởng trực tiếp của đại dịch
COVID-19, dòng vốn FDI trên toàn cầu đã giảm 35% trong năm 2020 so với
năm 2019, từ 1.500 tỷ USD xuống dưới 1.000 tỷ USD - mức thấp nhất kể từ
năm 2005 và thấp hơn gần 20% so với mức đáy năm 2009 sau cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu(1).
Năm 2021, FDI toàn cầu đã phục hồi và vượt qua mức trước đại dịch COVID-19, đạt 1.582 tỷ USD, tăng 64% so với năm 2020. Sự
gia tăng này chủ yếu là do lợi nhuận đến từ các giao dịch mua bán và
sáp nhập (M&A) cùng mức lợi nhuận giữ lại tương đối cao của các MNC.
Điều này đã dẫn đến các dòng tài chính nội bộ gia tăng đáng kể và xuất
hiện những biến động mạnh về FDI tại các trung tâm đầu tư lớn. Sự phục
hồi FDI trong năm 2021 đã mang lại mức tăng trưởng cao ở tất cả các khu
vực. Trong đó, các nền kinh tế phát triển có mức tăng mạnh nhất đạt 134%
(khoảng 746 tỷ USD), chiếm gần 3/4 mức tăng của dòng vốn FDI toàn cầu
và cao gấp đôi so với mức năm 2020. Mặc dù dòng vốn FDI vào các nền kinh tế đang phát triển tăng 30%, đạt 837 tỷ USD, song do dòng
vốn FDI vào các nền kinh tế đang phát triển tăng chậm hơn so với dòng
FDI vào các khu vực phát triển nên tỷ trọng FDI của các nước đang phát
triển trong FDI toàn cầu đã giảm từ 66% (năm 2020) xuống 53% (năm 2021).
MỘT SỐ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN FDI TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Trên
thực tế, sự sụt giảm và dịch chuyển dòng vốn FDI trên toàn cầu đã được
định hình trong nhiều năm trở lại đây, đặc biệt kể từ năm 2018, khi căng
thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc diễn ra gay gắt cùng với xu hướng bảo
hộ sản xuất trong nước gia tăng đã khiến dòng vốn đầu tư trên thế giới
sụt giảm (trên 10% trong cả hai năm 2018 và năm 2019). Trong bối cảnh
đó, đại dịch COVID-19 xuất hiện và lây lan nhanh chóng đã thúc đẩy quá
trình dịch chuyển FDI diễn ra nhanh hơn, quyết liệt hơn. Sự dịch chuyển
này có thể được lý giải bởi những nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, tái cấu trúc chuỗi cung ứng.
Được
đánh giá là kiến trúc sư của chuỗi giá trị toàn cầu, các MNC chiếm
khoảng 22% sản lượng toàn cầu, 70% tổng giá trị thương mại và chiếm tỷ
trọng đáng kể về số lượng việc làm trên thế giới(2). Các cơ
sở sản xuất của MNC được phân bố ở nhiều quốc gia, phần lớn trong số đó
nằm ở các nước đang phát triển, nhất là ở Trung Quốc. Tuy nhiên, quá
trình phát triển các chuỗi sản xuất này đã bộc lộ một số khiếm khuyết,
tiềm ẩn những rủi ro. Vì vậy, các MNC đã có xu hướng đa dạng hóa và dịch
chuyển các chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc. Đại dịch COVID-19 bùng
phát khiến cho chuỗi cung ứng bị đứt gãy, gián đoạn càng làm bộc lộ rõ
hơn những bất cập trong chuỗi cung ứng hiện nay, như quá phụ thuộc vào
nguồn cung của Trung Quốc; những tiềm ẩn rủi ro gia tăng bởi căng thẳng
Mỹ - Trung Quốc ngày càng leo thang; chi phí sản xuất ở Trung Quốc tăng
ngày càng cao, trong khi nước này đang dịch chuyển lên vị trí
cao hơn trong chuỗi giá trị, do vậy ngày càng thắt chặt các chính sách
khuyến khích đầu tư đối với các ngành dựa trên lao động, đất đai và các
yếu tố khác. Hơn nữa, sự tiến bộ của khoa học - công nghệ cùng sự phát
triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy đầu
tư và sản xuất hồi hương để giảm thiểu chi phí sản xuất và vận tải, cũng
như tạo điều kiện để các nhà đầu tư sản xuất tiếp cận thị trường gần
hơn. Do vậy, các MNC nhận thấy cần phải tái cấu trúc chuỗi cung ứng mạnh mẽ hơn.
Việc
các MNC tái cấu trúc chuỗi cung ứng đã kéo theo sự dịch chuyển dòng vốn
FDI theo các hướng: 1) Dịch chuyển đầu tư sản xuất từ Trung Quốc sang
các nước khác trong khu vực như Ấn Độ và các nước thuộc Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) để giảm thiểu sự phụ thuộc vào Trung Quốc
trong khi vẫn giữ và tận dụng được các cơ sở đã đầu tư tại Trung Quốc;
2) Dịch chuyển toàn bộ hoặc một phần đầu tư sản xuất về nước (reshoring)
hoặc về gần các nước đi đầu tư (near-reshoring).
Thứ hai, tỷ suất lợi nhuận từ FDI ngày càng giảm.
Xu
hướng sụt giảm FDI đã được định hình kể từ cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu năm 2007 - 2008 và được thể hiện ở cả tỷ lệ FDI/GDP thế giới,
FDI/đầu tư thế giới và FDI/thương mại thế giới. Năm 2020, FDI chỉ chiếm
dưới 4% tổng giá trị thương mại đầu tư toàn thế giới, thấp hơn nhiều so
với con số 22% ở thời kỳ đỉnh điểm năm 2007. Sự sụt giảm này một phần là
do tỷ suất lợi nhuận trung bình từ FDI trên toàn cầu đã sụt giảm trong
thập niên qua(3).
Trong
giai đoạn 2007 - 2018, tỷ suất lợi nhuận trung bình từ FDI ở các nền
kinh tế phát triển ở mức khá ổn định (đạt mức 4,0% đến 6,7%), thậm chí
từ năm 2010, tỷ suất lợi nhuận này ổn định hơn (đạt mức 5,9% đến 6,7%).
Trong khi đó, tỷ suất lợi nhuận trung bình từ FDI ở các nền kinh tế đang
phát triển giảm từ khoảng 11,5% (năm 2011) xuống còn 7,8% (năm 2018). Ở
các nền kinh tế chuyển đổi, tỷ suất này ổn định hơn cả. Đây cũng là lý
do mà FDI vào các nước đang phát triển có xu hướng giảm mạnh hơn so với
các khu vực khác.
Quy
mô FDI toàn cầu chủ yếu dựa trên hoạt động đầu tư của các MNC, vì vậy
khả năng tái đầu tư của họ sẽ suy giảm khi lợi nhuận của các công ty này
sụt giảm. Năm 2020, dòng vốn FDI của các tập đoàn đa quốc gia từ các
nước phát triển đã giảm hơn một nửa, xuống còn 347 tỷ USD - giá trị thấp
nhất kể từ năm 1996(4).
Một yếu tố khác cũng có thể khiến tỷ suất lợi nhuận từ FDI sụt giảm chính là sự không chắc chắn của nền kinh tế. Một
trong những chỉ số đo lường về sự không chắc chắn trong triển vọng của
nền kinh tế là chỉ số tính bất định của chính sách kinh tế (EPU). Chỉ số
EPU đã gia tăng trong thập niên
vừa qua. Khi đại dịch COVID-19 bắt đầu xuất hiện, chỉ số EPU toàn cầu
cao gấp ba lần mức đã chứng kiến vào đầu năm 2010, mức cao nhất được khảo sát trên phạm vi toàn cầu nói chung và ở Mỹ nói riêng. Sự bất định của nền kinh tế gia tăng buộc các nhà đầu tư phải cẩn trọng hơn trong mọi quyết định đầu tư của mình.
Thứ ba, cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine.
Tác
động của cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine đã vượt ra ngoài phạm vi khu
vực, gây ra cuộc khủng hoảng trên cả ba lĩnh vực: lương thực, nhiên liệu
và tài chính, đẩy giá năng lượng và hàng hóa tăng cao dẫn đến lạm phát
và vòng xoáy nợ ngày càng trầm trọng. Điều này đang làm gia tăng tình
trạng rủi ro, làm suy giảm niềm tin kinh doanh và đầu tư, ảnh hưởng đáng
kể tới đà phục hồi FDI toàn cầu.
Năng
lực sản xuất và thị phần xuất khẩu của một số mặt hàng nguyên liệu,
nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng, như xăng dầu, khí đốt, lúa
mì, nhôm, nikel, ngô… của Nga và Ukraine là rất lớn. Do đó, sự kéo dài
của cuộc xung đột Nga - Ukraine đã làm gia tăng sự gián đoạn trong sản
xuất và thương mại, làm trầm trọng thêm tình trạng lạm phát, vốn đang
tăng cao trên toàn cầu do tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19. Chỉ
trong vòng hai tuần kể từ khi xảy ra căng thẳng giữa Nga và Ukraine, giá
dầu thô trên thị trường thế giới đã tăng 30% so với mức giá đầu năm
2022 và tăng khoảng 80% so với mức đáy thiết lập đầu tháng 12-2021(5).
Chiến sự ở Ukraine kéo dài sẽ tiếp tục tác động đến giá cả hàng hóa và
lạm phát trên thế giới. Dự báo giá năng lượng năm 2022 sẽ tăng 52%, giá
nông sản sẽ tăng 18%, giá phân bón tăng gần 70% và giá kim loại tăng
12%. Lạm phát ngày càng lan rộng sang nhiều quốc gia sẽ khiến kinh tế
toàn cầu phải đối mặt với áp lực gia tăng tỷ lệ lạm phát. Dự báo lạm phát sẽ tăng 5,9 - 6,7% (gấp đôi so với năm 2021). Trong
đó, lạm phát tại các nền kinh tế phát triển là 5,7% và tại thị trường
các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển là 8,7%, cao
hơn 1,8 và 2,8 điểm phần trăm so với dự báo đã đưa ra trong tháng 1-2022(6).
Lạm
phát gia tăng dẫn đến làn sóng thắt chặt chính sách tiền tệ diễn ra
rộng khắp trên toàn thế giới với tốc độ nhanh chưa từng thấy trong nhiều
thập niên gần đây. Chỉ trong 3 tháng qua,
trên toàn thế giới đã công bố hơn 60 đợt nâng lãi suất. Nhiều chuyên gia
kinh tế cảnh báo các đợt nâng lãi suất này chỉ là khởi đầu cho một chu
kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ trên toàn cầu. Quá trình thắt chặt chính
sách được dự đoán sẽ diễn ra nhanh nhất tại các nước phát triển, như Mỹ
và Anh, EU.
Thanh
khoản toàn cầu ngày càng bị thắt chặt. Ngày 21/9/2022, Cục Dự trữ liên
bang Mỹ (FED) tiếp tục tăng lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm (lần thứ
ba liên tiếp từ đầu năm 2022 FED tăng lãi suất dựng đứng 0,75%) nhằm
kiềm chế lạm phát tăng cao nhất trong 40 năm qua tại Mỹ. Đồng đô la Mỹ
đóng vai trò là đồng tiền dự trữ quốc tế, do đó việc tăng lãi suất của
Mỹ không chỉ ảnh hưởng đến dòng vốn nước ngoài mà còn đẩy tỷ lệ rủi ro
nợ toàn cầu lên cao, đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển.
Các
chuyên gia phân tích dự báo, động lực cho dòng vốn đầu tư năm 2022
thiếu tính bền vững, dòng vốn FDI toàn cầu trong năm 2022 sẽ giảm tốc
hoặc có khả năng đi ngang nhưng các dự án đầu tư mới sẽ không mang tính
chắc chắn. Đồng thời, dòng vốn đầu tư chảy vào các lĩnh vực liên quan
đến mục tiêu phát triển bền vững vẫn còn yếu, đặc biệt như nông nghiệp, y
tế, giáo dục. Trong quý I-2022, dòng vốn đầu tư vào các dự án xanh đã
giảm 21% trên toàn cầu, các hoạt động M&A - động lực của dòng FDI
trong năm 2021 đã giảm 13%, các dự án tài trợ quốc tế giảm 4%. Bên cạnh
đó, dòng vốn đầu tư của các các công ty đa quốc gia hiện cũng ở mức
thấp, chỉ bằng 1/5 mức trước đại dịch COVID-19(7).
NHỮNG CHÍNH SÁCH FDI CHỦ ĐẠO HIỆN NAY
Tác
động tiêu cực của đại dịch COVID-19 và những biến động nhanh chóng,
phức tạp của tình hình thế giới đối với dòng vốn FDI quốc tế là vô cùng
lớn, buộc các quốc gia phải điều chỉnh lại các chính sách về FDI của
mình, một mặt để giúp phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19, mặt khác để bảo vệ an ninh quốc gia và sức khỏe cộng đồng. Năm 2020, 67 nền kinh tế trên thế giới đã đưa ra tổng số 152 biện pháp, chính sách liên quan đến đầu tư nước ngoài, trong đó nổi lên một số điểm chính như:
Một là, khuyến khích, thúc đẩy đưa sản xuất và dòng vốn FDI quay trở về nước.
Trên
thực tế, trước đại dịch COVID-19, Mỹ đã ban hành nhiều chính sách để
thu hút đầu tư, sản xuất và kinh doanh tại Mỹ nhằm tạo thêm việc làm,
như miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp Mỹ (giảm thuế thu nhập từ 25%
xuống 21%), cải cách thủ tục cấp phép đầu tư, đưa ra các tiêu chuẩn linh
hoạt hơn nhằm nâng cao tính cạnh tranh của một số ngành công nghiệp Mỹ
(năng lượng, ô-tô, nhôm, thép…), áp thuế cao đối với hàng hóa nhập khẩu.
Ngày 14/5/2020, Tổng thống Mỹ D. Trump đã ký sắc lệnh nhằm hỗ trợ các
doanh nghiệp Mỹ dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Các nhà lập
pháp của Mỹ cũng đã soạn dự thảo luật nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc của
Mỹ vào Trung Quốc, trong đó bao gồm ý tưởng thành lập một quỹ 25 tỷ USD
để đầu tư vào các doanh nghiệp Mỹ muốn “cải tổ” mối quan hệ với Trung
Quốc(8). Các doanh nghiệp Mỹ không chỉ rời Trung Quốc về Mỹ,
mà còn dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc đến các quốc gia khác phù
hợp hơn. Mỹ còn thúc đẩy “mạng lưới kinh tế thịnh vượng” nhằm kết nối,
phối hợp các quốc gia trong tự chủ về chuỗi cung ứng.
Các
nước Liên minh châu Âu (EU) thúc đẩy kinh tế “tự chủ chiến lược” thông
qua kiểm soát nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài, như Đức, Italia quy định,
kiểm soát chặt chẽ hơn đối với FDI trong các ngành chiến lược; Pháp
triển khai chiến lược “sản xuất tại Pháp” nhằm thúc đẩy sản xuất trong
nước với các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, như ô-tô, hàng
không, công nghệ số… Nhật Bản dành ngân sách 2,2 tỷ USD, trong đó 2 tỷ
USD để hỗ trợ các doanh nghiệp Nhật Bản đưa mạng lưới sản xuất từ Trung
Quốc về nước và khoảng 200 triệu USD để hỗ trợ doanh nghiệp Nhật Bản di
chuyển mạng lưới sản xuất ra khỏi Trung Quốc sang nước thứ ba đối với
một số ngành ưu tiên (như thiết bị y tế, phụ tùng ô tô, điện tử, kim
loại hiếm…). Hàn Quốc ban hành luật thu hút các doanh nghiệp đã đầu tư ở
nước ngoài quay về sản xuất, kinh doanh trong nước. Ấn
Độ và Đài Loan (Trung Quốc) cũng đưa ra hàng loạt ưu đãi về đất đai,
điện, nước, vốn và thuế để thu hút các doanh nghiệp quay trở lại đất
nước.
Hai là, chính sách sàng lọc FDI tiếp tục gia tăng.
Năm 2021, số lượng chính sách về đầu tư mới được đưa ra đã giảm xuống còn 109, ít hơn 28% so với năm 2020. Điều
đó cho thấy sự giảm thiểu của việc đưa ra các chính sách đầu tư khẩn
cấp đặc trưng trong năm đầu tiên xuất hiện đại dịch COVID-19. Tuy nhiên,
các nước vẫn tiếp tục tăng cường nhiều
biện pháp sàng lọc FDI nhằm bảo vệ các doanh nghiệp chiến lược thoát
khỏi sự thâu tóm của nước ngoài, đưa tỷ lệ các biện pháp hạn chế, giám
sát đầu tư từ 41% năm 2020 lên 42% trong năm 2021 (là tỷ lệ cao nhất
được đưa ra kể từ năm 2003). Những biện pháp này phần lớn được áp dụng ở
các nền kinh tế phát triển, song một số nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển cũng đã tăng cường rà soát dòng vốn FDI. Trong
khi đó, chỉ riêng trong quý I/2022 đã có tới 75 chính sách mới về đầu
tư - một số lượng kỷ lục tính theo quý, chủ yếu là các chính sách nhằm
ứng phó với những tác động đến từ cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine. Các
biện pháp trừng phạt và đáp trả liên quan đến xung đột Nga - Ukraine
chiếm 70% tổng số các biện pháp được áp dụng trong quý I/2022 (9). Điều
này khiến các nhà đầu tư nước ngoài phải đối
mặt với nhiều bộ quy tắc sàng lọc FDI đa dạng và phong phú trên nhiều
lĩnh vực đầu tư của các nước, khiến cho các nhà đầu tư cảm thấy bất ổn
và cẩn trọng hơn.
Sản xuất chip tại nhà máy của Intel ở Ireland. (Nguồn: ft.com)
Ba là, cạnh tranh thu hút FDI ngày càng khốc liệt.
Để
khôi phục kinh tế sau đại dịch COVID-19, dòng vốn FDI ngày càng đóng
vai trò quan trọng, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển - nơi
phụ thuộc rất nhiều vào FDI để tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu
và tạo việc làm. Tuy nhiên, sự sụt giảm FDI mạnh mẽ trong năm 2020 đã
đẩy các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi vào một giai
đoạn cạnh tranh khốc liệt mới để thu hút FDI, đặc biệt là trong lĩnh vực
sản xuất ở khu vực châu Á. Trong đó các chính sách thuế được sử dụng
khá phổ biến và thường xuyên để thúc đẩy nguồn đầu tư quốc tế.
Trong
bối cảnh các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm những điểm đến có chi phí
vận hành, sản xuất thấp hơn và có sẵn chuỗi cung ứng, thì Ấn Độ và các
nước Đông Nam Á đang nổi lên như một lựa chọn có thể thay thế Trung
Quốc. Tận dụng cơ hội này, Ấn Độ đã xem xét miễn giảm thuế cho các dự án
đầu tư mới; dành ra một quỹ đất hơn 460.000ha để thu hút các doanh
nghiệp dịch chuyển mạng lưới sản xuất từ Trung Quốc về Ấn Độ. Ngoài ra,
Ấn Độ cũng đang tập trung thúc đẩy các hiệp định thương mại với các quốc
gia khác. Nhiều nước thành viên ASEAN kiểm soát tốt đại dịch COVID-19
và đang trên đà phục hồi kinh tế, đã trở thành điểm đến hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư nước ngoài. Với mong muốn đưa nền kinh tế vượt qua thời
kỳ khó khăn và trở thành khu vực thu hút FDI lớn thứ ba trên thế giới,
các nước ASEAN tăng cường hợp tác để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư
trong việc luân chuyển hàng hóa trong khối và nỗ lực tạo dựng môi trường
cạnh tranh tốt nhất. Bên cạnh đó, các nước thành viên ASEAN cũng đưa ra
các chính sách và điều kiện thuận lợi để tạo lợi thế cạnh tranh riêng
trong thu hút FDI. Indonesia đã ban hành các chính sách ưu đãi mới nhằm tiếp đón các nhà đầu tư nước ngoài, như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 22% - 25% trong năm 2020 và giảm tiếp xuống 20% vào năm 2022; dành ra một khu vực rộng 4.000ha để xây dựng nhiều khu công nghiệp mới; tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào kết cấu hạ tầng. Thái Lan đẩy mạnh thu hút đầu tư trong lĩnh vực thiết bị y tế, ưu tiên các dự án công nghệ cao với ưu đãi giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 3 năm và hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực. Malaysia cũng có những ưu đãi thuế để thu hút đầu tư vào các lĩnh vực chiến lược. Trung
Quốc triển khai nhiều biện pháp khá mạnh mẽ nhằm “giữ chân” các nhà đầu
tư, giảm thiểu việc dịch chuyển mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng ra
khỏi Trung Quốc, như xây dựng các chính sách ưu đãi đặt biệt đối với
các doanh nghiệp hàng đầu thế giới, nhất là các tập đoàn đa quốc gia của
phương Tây; ban hành Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi; mở rộng các khu
thương mại tự do thí điểm với nhiều ưu đãi; tăng cường hợp tác kinh tế
với khu vực, trọng tâm là hợp tác khu vực Đông Bắc Á, khuôn khổ hợp tác
song phương của ASEAN với từng đối tác bên ngoài (ASEAN+1), khuôn khổ
hợp tác giữa ASEAN với ba nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc (ASEAN+3),
thúc đẩy Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); áp dụng
một số rào cản kỹ thuật nhằm hạn chế nhà đầu tư rút vốn…
MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH
Thông
qua xem xét sự dịch chuyển dòng vốn FDI và phân tích các nguyên nhân
dẫn đến sự sụt giảm FDI trong bối cảnh mới, có thể thấy rằng:
Thứ nhất,
quá trình dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ không diễn ra ngay lập
tức, mà thường có lộ trình khoảng 2 năm đến 5 năm, do các chuỗi cung
ứng này đã được hoàn thiện nên không thể nhanh chóng chuyển dịch. Ngoài
ra, sự dịch chuyển này mang tính đa dạng hóa thị trường, chỉ chuyển dịch
một phần chuỗi cung ứng chứ không phải là di dời toàn bộ và phần lớn là
dịch chuyển các nhà sản xuất mặt hàng giá trị thấp, thâm dụng lao động,
như dệt may, lắp ráp hàng điện tử. Trung Quốc với lợi thế có thị trường
quy mô rất lớn, lại có kết cấu hạ tầng, công nghiệp phụ trợ tốt, nguồn
nhân lực dồi dào và chất lượng cao, hệ thống logistics tích hợp sâu rộng
với chuỗi cung ứng toàn cầu, cũng như hệ sinh thái cung ứng công nghệ
cao, quy mô sản xuất lớn, đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng của Mỹ, châu
Âu…; đồng thời, bản thân Trung Quốc cũng đã có những phản ứng chính
sách kịp thời để “giữ chân” các nhà đầu tư nước ngoài, vì vậy Trung Quốc
vẫn sẽ là một điểm đến hấp dẫn hàng đầu thế giới về đầu tư.
Thứ hai,
việc dịch chuyển đầu tư về nước hay về gần nước đầu tư thường là các
chuỗi cung ứng có xu hướng ngắn hơn, tập trung vào lĩnh vực phục vụ
khách hàng địa phương với hoạt động sản xuất tại địa phương. Sự dịch
chuyển này sẽ mang lại lợi ích nhiều hơn cho các nước phát triển bằng
cách giúp tạo thêm việc làm và tạo ra nhiều vốn đầu tư hơn nhưng lại gây
tổn hại đến các nước đang phát triển, bao gồm cả Trung Quốc.
Thứ ba, sự
gia tăng các biện pháp, chính sách quản lý hoặc hạn chế đầu tư không
chỉ là phản ứng đối với một cuộc khủng hoảng bất thường mà còn là sự
tiếp nối của xu hướng chính sách kể từ khi xảy ra các cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu. Chính phủ các nước ngày càng nhận thức rõ hơn về lợi ích và những rủi ro liên quan đến đầu tư quốc tế. Thay vì tối đa hóa lượng vốn thu hút đầu tư nước ngoài, các chính sách đầu tư cần tập trung vào việc tối đa hóa lợi ích của đầu tư nước ngoài để
có thể vừa thu hút được FDI giúp phục hồi kinh tế, thúc đẩy sản xuất và
nâng cao năng lực trong nước, vừa bảo đảm lợi ích quốc gia. Sàng
lọc đầu tư nước ngoài là một công cụ chính sách mở rộng để có thể đạt
được mục tiêu này. Tuy nhiên, việc vận hành các cơ chế sàng lọc đầu tư
phải tuân thủ các hiệp định quốc tế đã ký kết. Do vậy, điều này có thể
tạo ra những khó khăn, phức tạp pháp lý trong quá trình ban hành các cơ
chế sàng lọc. Thực tế cũng cho thấy, các khoản đầu tư nước ngoài có thể
tiềm ẩn những rủi ro khó lường, khiến chính sách đầu tư có thể phải đối
mặt với những vấn đề mới.
Thứ tư,
các cơ chế sàng lọc có thể hạn chế sự hiện diện của FDI trong một quốc
gia, tuy nhiên chỉ ngăn cản dòng vốn FDI trong một số lĩnh vực nhất
định, thường là các lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc gia. Chính vì
vậy, mặc dù các rào cản đối với nhiều nhà đầu tư nước ngoài gia tăng,
song Mỹ và Trung Quốc vẫn là những quốc gia thu hút FDI lớn nhất thế
giới. Điều này chứng tỏ môi trường kinh doanh của từng vùng và quốc gia
mới là yếu tố then chốt để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ năm, lạm
dụng ưu đãi đất đai và thuế để cạnh tranh thu hút FDI có thể khiến các
nước đang phát triển rơi vào “cuộc đua xuống đáy” trong cuộc cạnh tranh.
Các ưu đãi này có thể ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách quốc gia, thậm
chí có khả năng vượt quá lợi ích mà FDI mang lại. Hơn nữa, khi ra
quyết định đầu tư, các nhà đầu tư quan tâm trước hết đến quy mô thị
trường và chính sách phát triển thị trường, tốc độ tăng trưởng kinh tế
trong nước, tiếp đến là chi phí sản xuất, chất lượng lao động sẵn sàng
đón nhận luồng đầu tư mới về kỹ thuật số, công nghệ tiên tiến. Do đó,
bên cạnh việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA), các nước
cần có chính sách phát triển thị trường và nguồn nhân lực có tay nghề
cao, tập trung lựa chọn thu hút FDI có chiều sâu, có lợi cho nền sản
xuất trong nước, cho quốc gia.
Thứ sáu, mặc
dù các tác động trong trung và dài hạn của đại dịch COVID-19 đối với sự
dịch chuyển FDI vẫn chưa được xác định chắc chắn, nhưng có thể sẽ có
những ảnh hưởng lâu dài đến việc hoạch định chính sách đầu tư theo
hướng: Một mặt, củng cố xu hướng FDI theo hướng tiếp cận bảo hộ
hơn nhằm hạn chế đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp quan trọng
và nhạy cảm; mặt khác, tác động của đại dịch COVID-19 có thể
sẽ tiếp tục kích hoạt cạnh tranh gia tăng để thu hút đầu tư vào các
ngành khác khi các nền kinh tế đang tìm cách phục hồi sau suy thoái.
Thứ bảy,
xung đột giữa Nga - Ukraine đã và đang dẫn đến xu hướng gia tăng lãi
suất trên toàn cầu nhằm kiểm chế lạm phát, đặc biệt ở các nước phát
triển. Điều này sẽ ảnh hưởng đến rủi ro về nợ và dòng vốn FDI vào các
thị trường mới nổi. Tuy nhiên, cuộc chiến ở Ukraine kéo dài khiến cho
căng thẳng giữa Nga và phương Tây càng gia tăng, do đó thị trường tại
các nước này tiềm ẩn nhiều rủi ro, các nhà đầu tư sẽ đẩy nhanh hơn quá
trình đa dạng hóa, chuyển dịch chuỗi cung ứng và dòng vốn đầu tư đến
những quốc gia có tình hình kinh tế - chính trị ổn định hơn. Trong thời
gian tới, dòng vốn FDI có thể sẽ chuyển hướng vào các khu vực Đông Nam
Á, Đông Bắc Á. Vì vậy, đây cũng chính là thời điểm thuận lợi để các nước
có tình hình kinh tế - chính trị ổn định, môi trường đầu tư, kinh doanh
hấp dẫn với các chính sách hợp lý có thể thu hút FDI.
Để
tận dụng nguồn vốn FDI một cách thực chất và hiệu quả, chính phủ các
nước và các nhà quản lý cần tìm ra các giải pháp mang tính linh hoạt để
có thể sớm loại bỏ những vấn đề còn tồn tại trong thu hút, quản lý FDI
hiện nay và giảm thiểu đến mức tối đa các tác động tiêu cực từ các thách
thức hiện có./.
TS. Nguyễn Hồng Thu
Viện Kinh tế và Chính trị thế giới
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
___________________________
(1) UNCTAD: World Investment Report 2021 - Investing in sustainable recovery (Tạm
dịch: Báo cáo Đầu tư thế giới năm 2021 - Đầu tư để phục hồi bền vững), United Nations Publications, New York, USA, 2021.
(2)
UNCTAD: World investment report 2020 - International production beyond
the pandemic (Tạm dịch: Báo cáo Đầu tư thế giới năm 2020 - Sản xuất
quốc tế vượt qua đại dịch), United Nations Publications, New York, USA, 2020.
(3)
Simon J. Evenett and Johannes Fritz: Advancing Sustainable Development
With FDI - Why Policy Must Be Reset (Tạm dịch: Thúc đẩy phát triển bền
vững với FDI - Tại sao các chính sách phải được thiết lập lại), The 27th Global Trade Alert Report, Centre for Economic Policy Research (CEPR), 2021.
(4)
Ashutosh Pandey: China, India drive Asia to defy COVID-19 - Induced
investment slump (Tạm dịch: Trung Quốc, Ấn Độ thúc đẩy châu Á thách
thức COVID-19: gây ra đầu tư sụt giảm), ngày 21/6/2021, https://www.dw.com/en/china-india-drive-asia-to-defy-covid-19-induced-investment-slump/a-57954983.
(5) Vũ Xuân Thanh: Kinh tế thế giới trước tác động của xung đột quân sự Nga - Ukraine, Tạp chí Ngân hàng điện tử, ngày 1/4/2022, https://tapchinganhang.gov.vn/kinh-te-the-gioi-truoc-tac-dong-cua-xung-dot-quan-su-nga-ukraine.htm.
(6) Tổng cục Thống kê: Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới quý II và cả năm 2022, Trang thông tin điện tử Tổng cục thống kê, ngày 29/6/2002, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/06/tong-quan-du-bao-tinh-hinh-kinh-te-the-gioi-quy-ii-va-ca-nam-2022/.
(7),
(9) UNCTAD: World Investment Report 2022 - International tax
reformsand sustainable investment (Tạm dịch: Báo cáo Đầu tư thế giới
2022 - Cải cách thuế quốc tế và đầu tư bền vững), United Nations Publications, New York, USA, 2022.
(8)
Đinh Thế Phúc, Đinh Thị Thanh Hải: Xu thế dịch chuyển đầu tư và gợi ý
một số giải pháp cho Việt Nam về tiếp nhận dòng vốn FDI mới sau đại dịch
Covid-19, Tạp chí Công Thương, số 16, tháng 7/2020.
(Nguồn: TC Cộng sản)