Lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề
tối hệ trọng của mỗi quốc gia trong hoạch định, thực thi chiến lược,
chính sách xây dựng và bảo vệ đất nước. Lợi ích quốc gia - dân tộc của
Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự ổn định
của hệ thống chính trị. Đây là nhân tố bất biến trong bối cảnh tình
hình thế giới, khu vực không ngừng biến động. Bước sang thập niên thứ ba
của thế kỷ XXI, hòa bình, hợp tác là xu thế chủ đạo, song tình hình thế
giới, khu vực luôn có diễn biến khó lường, điều này đã và đang đem lại
những thuận lợi - thời cơ, khó khan - thách thức đối với Việt Nam trong
việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.
Một là, trật tự đa cực đang hình
thành ngày càng rõ nét cho phép Việt Nam có điều kiện để thực hiện “dĩ
bất biến ứng vạn biến” trong quan hệ quốc tế và lựa chọn những kế sách
phù hợp để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Thực tiễn tình hình quốc tế cho thấy, kể
từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc cho tới một vài thập niên tới, thế
giới đang trong quá trình hình thành cấu trúc trật tự mới. Trật tự hiện nay không còn là đơn cực nhưng vẫn chưa phải đa cực(1).
Tuy sức mạnh của Mỹ trong tương quan so sánh với phần còn lại của thế
giới không còn cho phép Mỹ có khả năng áp đặt thế giới theo ý chí của
riêng mình, nhưng sự ra đời và tồn tại của các trung tâm quyền lực khác,
như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Liên minh châu Âu (EU)... vẫn
chưa đủ khả năng định hình trật tự đa cực. Cấu trúc “nhất siêu, đa
cường” vẫn tồn tại và ngôi thứ giữa các nước lớn không có nhiều thay
đổi, song khoảng cách so sánh lực lượng giữa các nước lớn, nhất là giữa
Mỹ và Trung Quốc, có sự thay đổi nhanh chóng. Trật tự đa cực và sức mạnh
tổng hợp quốc gia của các cường quốc đứng đầu, nhất là Mỹ và Trung
Quốc, ngày càng có xu hướng “cân bằng”, buộc các nước phải “cân nhắc” hành
vi của mình do lo ngại về phản ứng của các nước khác. Chính điều đó
mang lại lợi ích không nhỏ cho hòa bình, ổn định và phát triển của thế
giới và khu vực.
Cục diện thế giới trên cho phép Việt Nam
có điều kiện lựa chọn những kế sách phù hợp trong bảo vệ lợi ích quốc
gia - dân tộc, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” để không bị chi phối
trong quan hệ quốc tế, giảm sức ép của các nước lớn; thúc đẩy quan hệ
với nhiều đối tác, nhất là các nước lớn, trên các vấn đề lợi ích chiến
lược; qua đó, kiềm chế, đẩy lùi âm mưu, ý đồ và hành động xâm phạm chủ
quyền, lãnh thổ, thực hiện “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
đối với Việt Nam.
Hai là, cạnh tranh chiến lược giữa
các nước lớn, nhất là cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc, diễn ra ngày càng gay
gắt, phức tạp, tác động đến hòa bình, ổn định và quan hệ quốc tế của
nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Trong thời gian qua, thế giới chứng kiến
các nước lớn có sự cạnh tranh chiến lược gay gắt, phức tạp, đặc biệt
cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc diễn ra một cách trực tiếp, toàn diện. Các
nước lớn điều chỉnh chiến lược, gia tăng sức mạnh quân sự, tiếp tục can
dự, chi phối an ninh, chính trị thế giới, khu vực và các nước khác. Các
nước lớn kết hợp răn đe quân sự với các biện pháp kinh tế, văn hóa,
chính trị, ngoại giao, tạo “sức mạnh mềm”, sẵn sàng can thiệp vũ trang,
tấn công các nước nhỏ bằng các biện pháp vũ trang và phi vũ trang, buộc
các nước phải khuất phục, thay đổi chế độ chính trị... Vai trò của luật
pháp quốc tế, thể chế quốc tế tăng lên, nhưng một số nước lớn vẫn đang
tìm cách thay đổi “luật chơi” trong quan hệ quốc tế. Ranh giới giữa
chiến tranh và hòa bình, môi trường chiến lược diễn biến ngày càng phức
tạp, thúc đẩy chạy đua vũ trang. Do yêu cầu phát triển kinh tế, nhất là
để vượt qua khủng hoảng bởi tác động của đại dịch COVID-19, các nước đẩy
nhanh tốc độ khai thác tài nguyên thiên nhiên, từ đó làm trầm trọng
thêm vấn đề môi trường và gia tăng thách thức đối với phát triển bền
vững. Sự khan hiếm tài nguyên thúc đẩy các nước lớn tiến hành chính sách
“ngoại giao tài nguyên” một cách mạnh mẽ hơn. Cuộc chạy đua về kiểm
soát tài nguyên giữa các cường quốc khiến cho môi trường an ninh, chính
trị quốc tế thêm căng thẳng.
Không chỉ vậy, nhằm tạo dựng các trục
hợp tác bao vây, kiềm chế Trung Quốc, Mỹ triển khai chiến lược Ấn Độ
Dương - Thái Bình Dương, thúc đẩy nhanh và mạnh mẽ hơn quá trình tập hợp
lực lượng ở khu vực; tìm cách lôi kéo các đối tác khác trong khu vực.
Trong khi đó, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh lôi cuốn các nước tham gia
Sáng kiến “Vành đai, Con đường” nhằm mở rộng ảnh hưởng chính trị, lợi
ích của mình; ngăn chặn, phá thế bao vây, kiềm chế của Mỹ và các đồng
minh của Mỹ. Điều này tạo nên áp lực không nhỏ đối với các nước trong
khu vực, trong đó có Việt Nam trước việc “chọn bên”. Các nước lớn có thể
sẽ sử dụng vai trò, ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế để gây sức
ép đối với các nước trong khu vực, nhất là trong các tổ chức quốc tế và
khu vực mà những nước này đóng vai trò chủ đạo. Bên cạnh sự cạnh tranh
gay gắt, không loại trừ các nước lớn thỏa hiệp với nhau, ảnh hưởng đến
lợi ích của các nước vừa và nhỏ, trong đó có Việt Nam.
Ba là, hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc
cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ và sự phụ thuộc của các
nước đang phát triển, nước nhỏ vào nước lớn có xu hướng gia tăng, tác
động không nhỏ đến vấn đề bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Dự báo đến năm 2030, tình hình thế giới,
khu vực có thể tiếp diễn các xu thế lớn của những năm qua, nhưng phạm
vi, quy mô, mức độ và tính chất có những biểu hiện khác trước. Tình hình
sẽ diễn biến phức tạp, khó lường, song hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo. Đấu tranh giai cấp và
quan hệ quốc tế tiếp tục diễn ra với nhiều hình thức mới. Thay vì sự
phân hóa sâu sắc như trong thời kỳ Chiến trạnh lạnh, trong những năm
tới, các quốc gia tham gia tiến trình hội nhập ngày càng đông đảo, qua
đó xuất hiện ngày càng nhiều các cấu trúc an ninh, hợp tác đa tầng nấc,
theo cả trục dọc và trục ngang, cả ở quy mô tiểu khu vực, khu vực, liên
khu vực và toàn cầu. Hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng, khiến sự tùy
thuộc, ràng buộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng gia
tăng. Vì lợi ích địa - chính trị, địa - kinh tế, nhiều nước gác lại
tranh chấp, đối đầu để cùng hợp tác, khai thác thế mạnh của nhau nhằm
chia sẻ lợi ích. Thậm chí, một số quốc gia có sự khác nhau về hệ tư
tưởng, chế độ chính trị cũng bỏ qua những khác biệt này để không chỉ hợp
tác mà còn sẵn sàng trở thành “đồng minh” tạm thời của nhau trong xu
thế tập hợp lực lượng mới. Mặc dù các cường quốc tiếp tục đóng vai trò
chính trong quan hệ quốc tế, các quốc gia nhỏ và vừa sẽ có nhiều cơ hội
hơn trong việc tham gia các vấn đề thế giới, khu vực. Tuy nhiên, điều đó
không có nghĩa là các yếu tố “công bằng”, “dân chủ” trở thành các chuẩn
mực trong quan hệ quốc tế đương đại; ngược lại, những chuẩn mực trong
các mối quan hệ, hợp tác, hay các cách thức giải quyết các vấn đề quốc
tế vẫn sẽ do các cường quốc đóng vai trò quyết định. Mặt khác, cùng với
tác động của đại dịch COVID-19, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa
dân túy, chủ nghĩa bảo hộ và sự phụ thuộc của các nước
đang phát triển, nước nhỏ vào nước lớn có xu hướng gia tăng cũng làm
cho tính phức tạp của thế giới đương đại đa dạng và khó đoán định.
Trước các xu hướng trên, Việt Nam vận
dụng hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp
tác, cùng có lợi(2). Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực do
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ mang lại
đối với Việt Nam là không hề nhỏ, đòi hỏi cần có những đối sách phù hợp
nhằm hạn chế những tác động này để không ngừng bảo vệ lợi ích quốc gia -
dân tộc.
Bốn là, nhiều vấn đề có tính toàn
cầu nổi lên, tác động mạnh tới nhận thức và quan hệ của các nước nói
chung, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam nói riêng.
Ngày nay, toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển như vũ bão của
công nghệ thông tin... là những vấn đề mang tính toàn cầu nổi lên và đây
là những nhân tố tích cực thúc đẩy tiến bộ của thời đại. Đặc biệt, cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục phát triển mạnh mẽ, mở ra một
thời đại mới về phát triển lực lượng sản xuất, dẫn tới sự thay đổi nền
tảng trên mọi mặt của đời sống chính trị - xã hội của các nước trên thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ do
mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, can thiệp
lật đổ, khủng bố tiếp diễn phức tạp; các điểm nóng vẫn tồn tại và mở
rộng ở nhiều khu vực trên thế giới. Bên cạnh đó, cộng đồng quốc tế phải
đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh phi truyền
thống, như an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an
ninh mạng, khủng bố vũ trang, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh...
đang tiếp tục diễn biến phức tạp, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển
bền vững của nhiều quốc gia. Đây là những vấn đề không một quốc gia nào
có thể tự giải quyết mà cần sự chung tay của cộng đồng quốc tế.
Việt Nam có vị trí địa lý đặc thù, chịu
tác động nặng nề từ các thách thức an ninh phi truyền thống, ảnh hưởng
lớn đến nguồn lực, xây dựng lực lượng, thế trận phòng thủ, các mặt bảo
đảm cho hoạt động của lực lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc thời bình và khi có chiến tranh. Chiến tranh thông tin, chiến
tranh không gian mạng ngày càng bị các thế lực thù địch, phản động sử
dụng rộng rãi để xâm phạm chủ quyền, an ninh, lợi ích quốc gia, phá hoại
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chi phối, tác động lớn đến chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của Việt Nam. Tuy
nhiên, với sự ổn định về chính trị, thế và lực của Việt Nam ngày càng
gia tăng trên trường quốc tế, do vậy, cộng đồng quốc tế đánh giá cao vai
trò của Việt Nam trong hợp tác cũng như tham gia xử lý các vấn đề mang
tính toàn cầu; đồng thời, là nước có sự phát triển nhanh về công nghệ
thông tin nên Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để tiếp cận công
nghệ, tranh thủ thị trường, tham gia mạng lưới sản xuất và chuỗi cung
ứng khu vực và toàn cầu, cũng như ứng dụng thành tựu khoa học - công
nghệ mới, tạo sức đột phá mới trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với
tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng - an ninh, góp phần tích cực
trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong tình hình mới.
Năm là, châu Á - Thái Bình Dương
tiếp tục là khu vực phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính
trị ngày càng quan trọng trên thế giới, nhưng tiềm ẩn nhiều nhân tố bất
ổn, tác động đến việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam.
Trong thời gian gần đây, vai trò, sức
mạnh và ảnh hưởng của châu Á - Thái Bình Dương đang ngày càng tăng lên
khi các nền kinh tế trong khu vực có sự phục hồi và phát triển tích cực
mặc dù chịu tác động của đại dịch COVID-19. Theo nhận định của Giám đốc
Viện Nghiên cứu kinh tế quốc tế Ph. Béc-xten, trong nền kinh tế toàn
cầu, vai trò của khu vực châu Á đã được tăng cường trong 20 năm qua và
tiếp tục được củng cố trong hai thập niên tới(3). Trong tương
lai, với các đặc điểm như số lượng lao động và nhu cầu thị trường lớn
với những quốc gia là thị trường mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ và các
nước ASEAN, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú ở Trung Quốc, khu vực
Viễn Đông của Nga, Đông Nam Á, công nghệ cao và kinh nghiệm quản lý của
các nước tư bản phát triển như Mỹ, Nhật Bản..., cơ hội tập hợp của các
nền kinh tế này sẽ giúp mở rộng không gian tăng trưởng kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương.
Cùng với sức hút đặc biệt về kinh tế,
ảnh hưởng trên lĩnh vực an ninh - chính trị của khu vực đến an ninh quốc
tế cũng ngày càng tăng. Châu Á - Thái Bình Dương tập trung 3 trong số 5
thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, đồng thời là nơi
hiện diện và tập trung nhiều lợi ích và ưu tiên chiến lược của tất cả
các nước lớn trên thế giới. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương thu hút sự
quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới và đóng vai trò ngày càng lớn
đối với các vấn đề chính trị toàn cầu(4). Tại khu vực đã xuất
hiện một số sáng kiến liên kết và thỏa thuận đa phương không chỉ có nội
dung kinh tế - thương mại mà còn mang ý nghĩa tập hợp lực lượng về
chính trị, chiến lược và an ninh(5); các diễn đàn hợp tác,
như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn
hợp tác Á - Âu (ASEM) có xu hướng mở rộng nội dung hợp tác sang các vấn
đề an ninh, chính trị... Sự hiện diện của nhiều nước lớn thúc đẩy quan
hệ hợp tác trong và ngoài khu vực phát triển mạnh mẽ, hình thành các
liên kết song phương và đa phương, góp phần duy trì xu thế hòa bình,
kiềm chế xung đột, ngăn ngừa chiến tranh.
Tập hợp lực lượng ở khu vực châu Á -
Thái Bình Dương ngày càng linh hoạt, chịu tác động lớn bởi sự điều chỉnh
chính sách của Mỹ, Trung Quốc và những chuyển động trong quan hệ Mỹ -
Trung Quốc. Hợp tác đi cùng với va chạm lợi ích và cạnh tranh ảnh hưởng
giữa các cường quốc, đặc biệt là giữa hai nước đã và đang diễn ra một
cách phức tạp, toàn diện ở khu vực. Kể từ thời điểm Tổng thống Mỹ Đô-nan
Trăm lên nắm quyền (tháng 1-2017) đến nay, Mỹ công khai xác định Trung
Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lược” và thách thức an ninh lớn nhất
của Mỹ. Trên cơ sở đó, Mỹ triển khai nhiều nội dung, biện pháp chiến
lược để cạnh tranh vai trò lãnh đạo khu vực với Trung Quốc, đặt khu vực
trước những cơ hội và thách thức an ninh mới. Chiều hướng này còn tiếp
tục trong thời gian tới và tác động không nhỏ tới chính sách và an ninh
của các nước.
Mặc dù hòa bình, ổn định vẫn là xu thế
chủ đạo tại châu Á - Thái Bình Dương, song tình hình khu vực cũng có
nhiều diễn biến phức tạp, trong đó, mặc dù quan hệ kinh tế ngày càng
phát triển và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng nhưng quan hệ chính
trị giữa các nước trong khu vực, đặc biệt là các cường quốc, vẫn chứa
đựng nhiều nhân tố bất ổn định và những mâu thuẫn có thể bùng phát thành
xung đột, đó là: 1- Các tranh chấp biên giới - lãnh thổ tại khu vực,
nhất là tranh chấp biển, đảo tại Biển Đông và biển Hoa Đông, trở nên
phức tạp hơn, trở thành nguy cơ gây mất ổn định khu vực, ảnh hưởng tới
việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải, đe dọa lợi
ích chung của các nước trong và ngoài khu vực; 2- Tình hình nội trị
nhiều nước diễn biến phức tạp, nhân tố chủ nghĩa dân tộc nổi lên tác
động đến quyết sách đối nội và đối ngoại của nhiều nước; 3- Các vấn đề
an ninh truyền thống và phi truyền thống trở nên gay gắt hơn trong khi
khu vực vẫn chưa có cơ chế hữu hiệu để đối phó với các nguy cơ này; 4-
Khu vực xuất hiện nhiều cấu trúc hợp tác quốc phòng, nhưng thiếu một cơ
chế hữu hiệu để ngăn ngừa và xử lý các thách thức an ninh, tranh chấp,
xung đột.
Việt Nam là cầu nối giữa vùng kinh tế
biển và kinh tế lục địa ở châu Á. Biển Đông là nơi cạnh tranh gay gắt
giữa các nước lớn, cả trước mắt và lâu dài để bảo đảm an ninh, an toàn
tự do hàng hải, hàng không trên tuyến vận tải quốc tế; có vị trí quan
trọng trong chiến lược của các nước lớn. Do vậy, các nước lớn muốn lôi
kéo Việt Nam trong thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Những chuyển động của khu vực châu Á - Thái Bình Dương tạo cơ hội để
Việt Nam mở rộng quan hệ và tận dụng nguồn lực từ bên ngoài, góp phần
nâng cao sức mạnh quốc gia của Việt Nam. Tuy nhiên, những nhân tố bất ổn
như tình hình Biển Đông đã và đang ảnh hưởng lớn đến việc bảo vệ chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ biển, đảo và lợi ích quốc gia - dân tộc của
Việt Nam. Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) quy
định cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề liên quan đến chủ quyền
biển, đảo, nhưng vẫn tồn tại nhiều thách thức, tranh chấp về phân định
các vùng biển chồng lấn, đòi hỏi phải đấu tranh khẳng định và bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của Việt Nam. Việt Nam với gần 100 triệu dân, có kinh
nghiệm, truyền thống lịch sử, có sức mạnh, vị thế trên trường quốc tế,
luôn kiên định đường lối độc lập, tự chủ, nhưng cũng chịu sức ép rất lớn
từ các thách thức trong khu vực và trên thế giới.
Khai thác dầu khí trên thềm lục địa phía nam của Tổ quốc. (Nguồn: PVN)
Sáu là, ASEAN tiếp tục phát huy vai
trò trung tâm hợp tác, thúc đẩy liên kết khu vực Đông Á, nhưng vẫn phải
đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức tác động không nhỏ đến bảo đảm
lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam.
Ở khu vực Đông Nam Á, tiến trình xây
dựng Cộng đồng ASEAN tiếp tục được thúc đẩy đi vào chiều sâu, thể hiện
ASEAN tiếp tục là khu vực phát triển năng động, ngày càng phát huy vai
trò trung tâm trong thúc đẩy liên kết khu vực Đông Á. Tuy nhiên, tranh
chấp chủ quyền biển, đảo giữa các nước lớn với một số nước ASEAN, buộc
các nước phải chú trọng nhiều hơn đến quốc phòng. Bên cạnh đó, trình độ
phát triển không đồng đều, sự khác biệt về lịch sử, văn hóa, thậm chí
vấn đề ý thức hệ vẫn còn nặng nề trong một số nước thành viên ASEAN. Sự
can dự của các nước lớn cùng với tính toán lợi ích quốc gia, dân tộc
riêng rẽ của một số nước cản trở lập trường chung của ASEAN trong giải
quyết những vấn đề phức tạp, gây khó khăn trong lựa chọn đối sách, xử lý
quan hệ với các nước lớn. Do vậy, các nước lớn lợi dụng và thực thi
chính sách chia rẽ, ngoại giao trên thế mạnh, chi phối, làm suy giảm vai
trò của ASEAN.
Việt Nam là thành viên đóng vai trò ngày
càng quan trọng trong ASEAN và nhiều tổ chức khu vực khác. Trong nhìn
nhận của các nước lớn - như ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu - Việt Nam
là một trong những nước có ảnh hưởng mang tính “dẫn dắt” trong ASEAN. Do
đó, trong chính sách của các nước, nhất là các nước lớn đối với khu
vực, Việt Nam có vị trí tương đối quan trọng, được các nước coi là một
đối tác cần tăng cường, là nhân tố góp phần kết nối quan hệ của các nước
với ASEAN(6). Với nhận thức của các nước về vai trò của Việt
Nam nêu trên là điều kiện thuận lợi để Việt Nam phát huy vị thế, lựa
chọn những kế sách phù hợp trong bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Tóm lại, tình hình thế giới và khu vực
hiện nay và dự báo trong thập niên thứ ba của thế kỷ XXI có những biến
đổi phức tạp, nhanh chóng và khó lường. Tình hình trên tiếp tục
tác động trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa tạo ra
nhiều thời cơ, thuận lợi mới, vừa mang đến những khó khăn, thách thức
lớn đối với nước ta, đòi hỏi cần phải luôn theo dõi, bám sát tình hình,
vận dụng phương pháp khoa học để đánh giá đúng bối cảnh quốc tế. Đặc
biệt, phải nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, khu
vực cũng như mục tiêu, lợi ích, ý đồ chiến lược của các nước, nhất là
các nước lớn, đối với khu vực và Việt Nam để đề ra đường lối, chính
sách, sách lược kịp thời, trong đó phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân
tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời tích cực hội nhập
quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bất luận trong hoàn cảnh nào cũng cần tìm
phương cách để tránh rơi vào thế kẹt giữa các bên./.
TS. Nguyễn Đức Lợi
Thiếu tướng, Chính ủy Học viện Khoa học Quân sự
__________________
(1) Phạm Minh Chính: “Những biến động mới của tình hình thế giới, khu vực và chính sách của Việt Nam”, in trong sách: Biến động của tình hình thế giới: Cơ hội, thách thức và triển vọng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018.
(2) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 161 - 162.
(3) Bergsten, F.: “Pacific Asia and the Asia Pacific: The Choices for
APEC” (Tạm dịch: Thái Bình Dương và châu Á - Thái Bình Dương: Sự lựa
chọn cho APEC), Institute for International Economics, Washington D.C
(4) Đây là khu vực tập trung những quốc gia có diện tích lớn nhất thế
giới (Nga, Trung Quốc và Mỹ), bốn trong số những quốc gia đông dân nhất
thế giới (Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ và In-đô-nê-xi-a), 3 cường quốc kinh tế
hàng đầu thế giới (Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản). Hơn nữa, khu vực cũng
tập trung 3 trong 5 Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
(Trung Quốc, Mỹ và Nga), 7 trong 10 cường quốc quân sự hàng đầu thế giới
(Trung Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, CHDCND Triều Tiên và Hàn Quốc).
(5) Nổi bật nhất là sự hình thành của Nhóm “Bộ Tứ” (Mỹ, Nhật Bản, Ấn
Độ, Ô-xtrây-li-a); Liên minh quân sự Mỹ - Anh - Ô-xtrây-li-a (AUKUS)...
(6) “Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” do Bộ
Quốc phòng Mỹ công bố tháng 6-2019 đã 23 lần đề cập đến Việt Nam, thậm
chí xếp Việt Nam trước cả các đối tác quan trọng khác của Mỹ trong ASEAN
là Xin-ga-po và In-đô-nê-xi-a.
(Nguồn: TC Cộng sản)