Theo Bộ Tài chính, nợ công tính đến 31/12/2018 của Việt Nam ở mức 58,4% GDP, bảo đảm trong giới hạn.
VẪN TRONG GIỚI HẠN
Dữ liệu Bộ Tài chính cung cấp cho biết
dự kiến nợ công năm 2018 là 58,4% GDP; nợ Chính phủ là 50% GDP. Nghĩa vụ
trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu ngân sách là 15,9%. Nợ nước ngoài
quốc gia là 46% GDP...
Theo Bộ Tài chính, các chỉ tiêu nợ nói
trên bảo đảm trong giới hạn được Quốc hội quyết định và thấp hơn mức dự
kiến tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 1/1/2018 của Chính phủ về nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự
toán ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 2018.
Mặc dù quy mô danh mục nợ Chính phủ được
kiểm soát tốt nhưng cùng với ảnh hưởng của việc Việt Nam dừng nhận các
khoản vay ưu đãi từ Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) thuộc Ngân hàng
Thế giới (WB) kể từ năm 2017, các chỉ tiêu chi phí - rủi ro danh mục nợ
Chính phủ, đặc biệt là nợ nước ngoài, có xu hướng kém thuận lợi hơn
trước đây.
Cụ thể, rủi ro tái cấp vốn tập trung vào
các khoản nợ trong nước của Chính phủ do nghĩa vụ trả nợ đến hạn tập
trung cao vào một số năm (9,3% danh mục nợ trong nước của Chính phủ sẽ
đến hạn năm 2019 và 32,7% sẽ đến hạn trong giai đoạn 2019-2021), điều
này sẽ tác động đến việc bố trí nguồn trả nợ trong cân đối NSNN.
Đối với danh mục nợ nước ngoài của Chính
phủ, trong 5 năm tới các khoản vay ODA sẽ giảm dần, tiến đến kết thúc,
dẫn đến thiếu hụt nguồn vốn vay dài hạn, ưu đãi cho đầu tư. Thay vào đó,
Chính phủ cần huy động các khoản vay mới với điều kiện kém ưu đãi hơn
nhiều, sát với thị trường để bù đắp thiếu hụt cho cân đối NSNN và đầu tư
công trung hạn.
Rủi ro lãi suất danh mục nợ nước ngoài
có xu hướng gia tăng do tỉ trọng các khoản vay có lãi suất thả nổi tăng.
Tuy nhiên, nhìn chung mặt bằng lãi suất bình quân nợ nước ngoài của
Chính phủ vẫn duy trì ở mức thấp (2,0%/năm) do trên 96% khoản vay nước
ngoài có điều kiện ODA, vay ưu đãi.
Đối với nợ trong nước, lãi suất bình
quân gia quyền của danh mục nợ tính đến cuối năm 2018 ở mức 5,8%/năm,
giảm đáng kể so với mức 6,6%/năm vào năm 2015. Tuy nhiên, do quy mô thị
trường trái phiếu còn nhỏ, trong khi tiềm lực tài chính của các tổ chức
tài chính phi ngân hàng còn hạn chế, việc tập trung phát hành trái phiếu
Chính phủ kỳ hạn dài là tương đối khó khăn. Ngoài ra, việc không phát
hành trái phiếu Chính phủ kỳ hạn ngắn dưới 5 năm cũng dẫn đến đường cong
lãi suất chuẩn không đầy đủ, thiếu lãi suất ngắn hạn tham chiếu cho thị
trường vốn.
RỦI RO TỪ NỢ DOANH NGHIỆP ĐƯỢC BẢO LÃNH
Ông Võ Hữu Hiển, Phó Cục trưởng Cục Quản
lý nợ và tài chính đối ngoại cho biết, trong các giải pháp tăng cường
quản lý nợ công, bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững phải
xác định nhiều yếu tố. Chẳng hạn như bảo đảm huy đông vốn để phục vụ
phát triển; lựa chọn chi phí phù hợp, hạn chế rủi ro; bảo đảm chỉ tiêu
an toàn nợ công và cuối cùng là hướng đến phát triển thị trường vay vốn
trong nước và thị trường trái phiếu Chính phủ, hạn chế các khoản vay
nước ngoài để không ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia.
Riêng về cấp bảo lãnh chính phủ, ông Võ
Hữu Hiểu cho biết đã được thực hiện chặt chẽ từ đầu bằng những quy định
pháp lý, đảm bảo giới hạn nợ vay an toàn và khả năng trả được nợ, không
tăng thêm gánh nặng cho nợ công. Việc cấp bảo lãnh chính phủ được ưu
tiên cho các dự án có tầm quan trọng đặc biệt cho phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước.
Qua thống kê cho thấy, trong năm 2018,
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) đã huy động thông qua phát hành trái
phiếu được 16.545 tỷ đồng, bằng 95% kế hoạch phát hành năm 2018, với
74,3% khối lượng phát hành có kỳ hạn từ 5 năm trở lên.
Còn Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam
huy động được 9.670 tỷ đồng, bằng 100% hạn mức phát hành năm 2018, với
71% khối lượng phát hành có kỳ hạn từ 5 năm trở lên. Đến 31/12/2018, dư
nợ trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh của 2 ngân hàng chính sách là
157.738 tỷ đồng, giảm 4,8% so với cuối năm 2017.
Đại diện Bộ Tài chính nhận định tình
hình nợ công của Việt Nam vẫn trong giới hạn và có diễn biến khả quan
với nhiều lí do. Thứ nhất, nền tảng vĩ mô khởi sắc, tăng trưởng GDP vượt
kế hoạch và đạt mức cao nhất trong 11 năm qua. Thứ hai, Việt Nam điều
hành chính sách tài khóa đạt được nhiều thành quả khả quan, thu cân đối
ngân sách ước vượt 7,8% so với dự toán, dự kiến bội chi NSNN thấp hơn so
với dự toán là 3,7% GDP, qua đó giảm nhu cầu huy động vốn vay của Chính
phủ. Thứ ba, giải ngân vốn ODA, ưu đãi nước ngoài chậm hơn dự kiến và
biến động tỉ giá được kiểm soát tốt đã góp phần giảm quy mô nợ nước
ngoài của Chính phủ khi quy ra đồng Việt Nam. Thứ tư, kiểm soát chặt chẽ
các khoản bảo lãnh của Chính phủ, không cấp bảo lãnh mới cho doanh
nghiệp vay trong nước và khuyến khích người vay trả nợ trước hạn dẫn đến
giảm dư nợ bảo lãnh nước ngoài./.
(VGP)