Thứ Sáu, 22/11/2024
Xã hội
Thứ Hai, 9/8/2021 10:43'(GMT+7)

Nỗ lực nâng cao chất lượng dân số ở Việt Nam hiện nay

 

Đối với Việt Nam, đóng góp tích cực của quy mô dân số cho tăng trưởng kinh tế kết thúc vào năm 2019, sau đó, chất lượng dân số là nhân tố chính đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. 

NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC 

Trong thời gian vừa qua, mặc dù chất lượng dân số ở Việt Nam đã được nâng lên, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước, song chất lượng dân số đang gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn: 

Thứ nhất, thể lực, tầm vóc, sức bền của con người Việt Nam chậm được cải thiện và còn yếu so với nhiều nước khác trên thế giới, kể cả các nước đang phát triển. Mức sinh giữa các vùng còn chênh lệch đáng kể. Mức sinh chênh lệch đáng kể giữa các vùng, miền, tỉnh, thành phố. Mất cân bằng giới tính khi sinh còn ở mức nghiêm trọng. Số năm sống khoẻ mạnh của người Việt Nam thấp so với nhiều nước. Người ít có điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng con còn đẻ nhiều, ảnh hưởng đến chất lượng dân số. Chỉ số phát triển con người (HDI) chưa cao. Tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn cao. Tầm vóc, thể lực của người Việt Nam chậm được cải thiện. Tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống còn phổ biến ở một số dân tộc ít người. 

Thứ hai, lợi thế của dân số vàng chưa được khai thác hiệu quả. Tốc độ già hóa dân số nhanh và chưa có hệ thống giải pháp  phù hợp thích ứng với già hóa dân số. Phân bố dân số, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất cập. Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người di cư và ở nhiều đô thị, khu công nghiệp còn nhiều hạn chế....

Thứ ba, chất lượng dân số về trí lực và năng lực còn thấp. Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp và cơ cấu lao động được đào tạo còn bất hợp lý. Năng suất lao động của Việt Nam hiện vẫn rất thấp so với nhiều nước trong khu vực. Năng lực đổi mới và sáng tạo khoa học và công nghệ của lực lượng lao động có trình độ cao còn nhiều hạn chế. Năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp của lực lượng lao động còn thấp. Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực còn hạn chế.

Thứ tư, bộ máy, phương thức quản lý về dân số, chất lượng dân số có tính hiệu lực, hiệu quả thấp, chưa phù hợp với đặc thù quản lý tổng hợp, đa ngành của công tác dân số, chất lượng dân số. Việc phối hợp, liên thông, kết nối giữa các Bộ, ngành, địa phương nhằm nâng cao chất lượng dân số còn hạn chế, chưa rõ đầu mối, đòi hỏi phải có thể chế, mô hình, cơ chế quản lý liên ngành tổng hợp để quản lý công tác dân số, chất lượng dân số. Công tác truyền thông giáo dục về dân số ở một số khu vực, nhóm đối tượng hiệu quả chưa cao...

Những hạn chế về chất lượng dân số nêu trên đã trở thành những rào cản đối với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển bền vững, làm hạn chế năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và làm giảm đóng góp của yếu tố TFP vào tăng trưởng trong thời gian tới.

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ - ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC 

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định nâng cao chất lượng dân số là một trong các đột phá chiến lược và  định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 , quán triệt định hướng nêu trên, trong thời gian tới, cần chú trọng, và tập trung hơn nữa vào các giải pháp, nhiệm vụ nâng cao chất lượng dân số, cụ thể: 

Một là, nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của chất lượng dân số đối với phát triển kinh tế - xã hội nhất là ở các cấp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách.  Nâng cao chất lượng dân số cần được nhận thức là nâng cao toàn diện cả về thể lực, trí lực và tâm lực của con người, phù hợp với quy mô, cơ cấu dân số và trình độ phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng đào tạo kỹ năng, chăm sóc sức khỏe và giáo dục tâm hồn, đạo đức.

Hai là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân số và lồng ghép các biến dân số vào kế hoạch hoá phát triển. Bảo đảm thống nhất nhận thức, hành động của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận và ủng hộ của toàn xã hội về chính sách dân số, đưa công tác dân số thành một nội dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền. Ban hành các nghị quyết, chiến lược, kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm để cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn, tình hình thực tiễn của Bộ, ngành, địa phương. Thực hiện lồng ghép các yếu tố dân số vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội do Bộ, ngành, địa phương chủ trì xây dựng và thực hiện. Đầu tư kinh phí, kiện toàn tổ chức bộ máy và bố trí cán bộ đủ năng lực để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ về công tác dân số của ngành, địa phương đã đề ra. Đẩy mạnh phong trào thi đua thực hiện các nhiệm vụ về công tác dân số. Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, phong trào thi đua về công tác dân số của các địa phương, đơn vị.  Đề cao tính tiên phong gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu trong việc thực hiện chính sách dân số.

Ba là, phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số, chất lượng dân số, kế hoạch hóa gia đình. Củng cố, đa dạng hóa, nâng cao chất lượng  mạng lưới cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình ở tuyến cơ sở. Tiếp tục huy động các thành phần kinh tế tham gia tiếp thị xã hội, xã hội hóa cung cấp phương tiện và dịch vụ tránh thai. Mở rộng khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục thân thiện với thanh niên. Thí điểm, từng bước mở rộng chương trình ngăn ngừa, sàng lọc, can thiệp, điều trị sớm các bệnh, tật là nguyên nhân dẫn đến vô sinh ở nhóm dân số trẻ. Tập trung mở rộng mạng lưới, nhanh chóng phổ cập chương trình cung cấp dịch vụ tầm soát, chẩn đoán, can thiệp, điều trị sớm bệnh tật trước sinh, sơ sinh cho mọi phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh. Tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện có hiệu quả các chương trình thể dục, thể thao, rèn luyện, nâng cao sức khỏe, các chương trình dinh dưỡng, sữa học đường nhằm nâng cao thể lực, tầm vóc người Việt Nam. Đẩy mạnh việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi. Phát triển mạng lưới chăm sóc người cao tuổi đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về số lượng và chất lượng theo các cấp độ khác nhau. Củng cố mạng lưới chuyên ngành lão khoa theo nguyên tắc gắn kết dự phòng, nâng cao sức khỏe, điều trị, phục hồi chức năng và chăm sóc giảm nhẹ. 

Bốn là, đổi mới truyền thông, vận động trong cộng đồng và giáo dục dân số trong nhà trường. Tập trung đẩy mạnh, tăng cường độ và nâng cao hiệu quả các hoạt động tuyên truyền giáo dục về dân số và phát triển. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông trực tiếp thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của các ngành các cấp. Đổi mới toàn diện nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục dân số, sức khoẻ sinh sản trong và ngoài nhà trường. 

Năm là, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Cấu trúc giáo dục phổ thông cần thay đổi căn bản theo hướng rút gọn qui mô ở cả ba cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông theo lộ trình giảm dân số trong độ tuổi đi học, chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đào tạo, thu hút tư nhân tham gia vào quá trình giáo dục, đào tạo.

Sáu là, ưu tiên đào tạo nghề tại chỗ cho lực lượng lao động phổ thông để mở rộng cơ hội tìm kiếm việc làm cho đại bộ phận lực lượng lao động. Cần tập trung đào tạo những kỹ năng, chuyên môn dựa trên nhu cầu thực tế của địa phương thông qua các hình thức tự đào tạo, tăng cường liên kết đào tạo giữa các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo dựa trên nhu cầu. Nhà nước, đặc biệt là chính quyền cơ sở, cần tạo điều kiện hỗ trợ về cơ sở vật chất, một phần kinh phí hoặc cung cấp thông tin, tuyên truyền, quảng bá để phát triển các hình thức cộng đồng dạy nghề.  Đổi mới toàn diện hệ thống các trung tâm dạy nghề tại địa phương hiện nay. Việc dạy nghề cần phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng lao động và khả năng mở mang ngành nghề thực tế tại địa phương, chứ không phải theo một chương trình soạn sẵn hoặc áp đặt từ trên xuống một cách duy ý chí.  Cần thu hút các cơ sở dạy nghề tư nhân tham gia vào công tác đào tạo, dạy nghề cho lao động địa phương bằng cách tạo cơ chế đấu thầu công khai nhận kinh phí dạy nghề của ngân sách Nhà nước giữa các trung tâm dạy nghề công lập với các cơ sở đào tạo nghề tư nhân. Nghiên cứu áp dụng các hình thức chuyển trợ cấp của Nhà nước cho lĩnh vực đào tạo dạy nghề từ trợ cấp bên cung sang trợ cấp bên cầu. 

Bảy là, tiếp tục phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển hệ thống đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Cập nhật, nâng cấp chương trình, đổi mới toàn diện cơ chế quản lý, phương pháp dạy và học trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng. Xây dựng chuẩn đầu ra phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động. Xây dựng tiêu chuẩn giảng viên cho từng cấp, xây dựng tiêu chí đánh giá và thực hiện việc đánh giá thành tích của từng giảng viên nhằm tạo động lực, kích thích sự học hỏi và phấn đấu trong tập thể giảng viên, thu hút và đãi ngộ xứng đáng đối với những giảng viên giỏi nghiệp vụ và giàu kinh nghiệm thực tế, giảng viên người nước ngoài. Chú trọng hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học./. 

 

Nguyễn Mạnh
 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất