Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, được bồi đắp qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ngày càng được kế thừa và phát triển cùng tiến trình lịch sử. Từ khi ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến nay, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy nguồn sức mạnh nội sinh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh - Linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền thống yêu nước, sớm chịu ảnh hưởng của truyền thống đấu tranh bất khuất, đoàn kết tương thân, tương ái của vùng quê hương núi Hồng sông Lam, Nguyễn Tất Thành- Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh sớm nhận thức sâu sắc rằng đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Mang theo trong hành trang của mình "di sản quốc bảo" của dân tộc, đó là lòng yêu nước thương dân tha thiết, đó là tinh thần tương thân, tương ái, cố kết cộng đồng của tình làng nghĩa xóm..., Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước đã lựa chọn và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước theo quỹ đạo cách mạng vô sản.
Từ tinh thần của học thuyết Mác, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ là trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, thì phải thực hiện "dân tộc cách mệnh" trước, vì "dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp", cho nên trong khi nêu rõ việc phải xác định rõ công nông là gốc cách mạng thì không quên rằng cả các "học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ" cũng là "bầu bạn cách mạng của công nông". Người chủ trương kêu gọi sự liên hiệp các giai cấp, các tầng lớp yêu nước, trong đó có công nông là nòng cốt, thành một lực lượng đoàn kết, to lớn của cả dân tộc để đánh đổ đế quốc và bọn tay sai. Điều này được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng mùa Xuân năm 1930.
Từ kinh nghiệm thực tiễn và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá được ý nghĩa của vấn đề "cách mạng chỉ có thể thắng lợi nếu như những làn sóng cách mạng lay động được quần chúng nông dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản" bằng những nội dung cụ thể, sáng tỏ được nêu lên trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo. Đó là, “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"(1). Đánh đuổi thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, xây dựng xã hội cộng sản là sợi chỉ đỏ, là sự hấp dẫn đỉnh cao mà Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định. Song nhiệm vụ lịch sử ấy "là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người"(2), vì vậy phải đoàn kết toàn dân, phải "sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền". Tuy nhiên trong khối đại đoàn kết đó, cốt lõi vẫn là công - nông bởi "công nông là người chủ cách mệnh… Công nông là gốc cách mệnh"(3). Trong khi tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, theo Người: cần phải tập hợp các tầng lớp nhân dân vào một mặt trận dân tộc thống nhất, rộng rãi, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, tập trung cho mục tiêu trước hết là "độc lập dân tộc".
Bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo trào cách mạng năm 1930 - 1931 và Xôviết Nghệ Tĩnh về công tác vận động, tập hợp lực lượng cách mạng đã được thực hiện và sự chỉ đạo về chiến lược và sách lược của Đảng ta thời kỳ 1936-1939 đã có những điểm phát triển mới so với thời kỳ trước. Thông qua Văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới của Đảng tháng 10/1936, Đảng ta đã từng bước trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng và nội dung của Văn kiện này đã được bổ sung và phát triển cùng với thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt ở Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (5/1941) do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo.
Trên một nguyên tắc nhất quán, lấy lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi của nhân dân lao động làm nền tảng, Hồ Chí Minh đã trân trọng, tìm kiếm và phát huy những điểm tương đồng, thống nhất, hạn chế những điểm khác biệt, mâu thuẫn. Theo Người, chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước, vì vậy, muốn tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thì không thể bỏ qua một động lực như vậy, và "người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ"(4). Trên cơ sở đó, để huy động sức mạnh cho công cuộc giải phóng, Hồ Chí Minh và Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu "phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân hơn hết là dân tộc Việt Nam". Vì vậy, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh đã ra đời (19/5/1941).
Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm mà tinh thần cơ bản là cốt thực hiện được hai điều: “Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn được độc lập. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do”; với nhiều hội Công nhân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc… đã quy tụ hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, xu hướng, đảng phái, giai cấp thành một khối đoàn kết muôn người như một. Mặt trận Việt Minh - hình thức mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm tập hợp và phát huy nguồn sức mạnh của quần chúng nhân dân trong quá trình tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là một sách lược tài tình của Đảng và Hồ Chí Minh cũng đồng thời xác định đúng mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, xác định đúng nhiệm vụ cách mạng đã không chỉ phát huy mà còn nhân lên nguồn sức mạnh nội sinh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm thực hiện khát vọng giành độc lập, tự do.
Tháng 8/1945, thực hiện lời kêu gọi của Người: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, cả dân tộc muôn người như một, đồng lòng, vùng lên, giáng một đòn quyết định vào các cơ quan đầu não, làm tê liệt mọi sự kháng cự của phát xít Nhật và bọn tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố nền độc lập của dân tộc trước toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới; đồng thời khẳng định: “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa… Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Với thắng lợi của cuộc cách mạng mùa thu năm 1945, Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã không chỉ kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lên một tầm cao mới, mà còn làm cho những nguyên lý Mácxít về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân trong lịch sử được thực hiện sinh động ở Việt Nam.
Kể từ khi tìm thấy con đường cứu nước, cho đến khi trở thành người đứng đầu Nhà nước, rồi trở về với thế giới người hiền, Hồ Chí Minh đã luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; không ngừng thực hiện và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở lấy dân làm gốc, kết hợp truyền thống với hiện đại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tiếp tục phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
Nhận thức sâu sắc rằng, đoàn kết là nguyên nhân,"đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của mọi thành công”(5), Hồ Chí Minh và Đảng ta đã luôn chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí trong Đảng, hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân. Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, khát vọng xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh, ngày càng phát triển, khẳng định được vai trò và vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế đã hấp dẫn hết thảy mọi người Việt Nam yêu nước. Trong hành trình đó, Hồ Chí Minh trở thành ngọn cờ thống nhất, quy tụ nhân dân Việt Nam ở mọi thế hệ, mọi thành phần dân tộc, bởi chính Người đã luôn chủ trương "bỏ qua những dị biệt nhỏ, giữ lấy cái tương đồng lớn"; luôn thực hiện nguyên tắc "dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong xử lý trong các vấn đề quốc gia và quốc tế.
Lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đã chứng minh rằng: sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ có được từ yếu tố truyền thống, đó còn là quá trình củng cố, hun đúc và nhân nguồn sức mạnh trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh "hoà mà không tư"- tấm gương mẫu mực của tinh thần đoàn kết dân tộc và quốc tế nên những lời kêu gọi, những khẩu hiệu về đại đoàn kết mà Người nêu ra đã nhanh chóng đi vào lòng người. Hồ Chí Minh - Người bắt nhịp và chỉ huy dàn hợp xướng đại đoàn kết toàn dân tộc năm xưa, đã luôn sáng suốt, sử dụng có hiệu quả các hình thức vận động quần chúng trên cơ sở xoá bỏ thành kiến, thật thà hợp tác, cô lập lực lượng thù địch, nhằm tạo ra và nhân lên nguồn sức mạnh vô địch của cả dân tộc vẫn luôn có sức sống bất diệt trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng.
Kế thừa và vận dụng, "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII, trong đó có bài học về cổ vũ, động viên và nhân nguồn sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong cách mạng Tháng Tám năm 1945 phù hợp với tình hình mới vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự. Cũng nhờ sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ mà nhân dân ta đã giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, góp sức tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
71 năm trôi qua, nhưng đại đoàn kết toàn dân tộc và vận dụng bài học lịch sử đó trong những giai đoạn cách mạng tiếp theo luôn được Đảng ta coi là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được khơi dậy và phát huy trên tinh thần đặt lợi ích chung của dân tộc, của đất nước và của nhân dân lên trước hết; lấy đó làm cơ sở để xây dựng các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế-xã hội, an ninh-quốc phòng, đối ngoại... Bài học về việc phát huy sức mạnh toàn dân dựa trên nền tảng khối liên minh giữa công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức chính là thắng lợi của nghệ thuật phát huy sức mạnh của nhân dân, dựa vào nhân dân dân và “lấy dân làm gốc” đã được kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử. Củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung quan trọng trong đường lối cách mạng của Đảng 86 năm qua, và tiếp tục được khẳng định trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(6).
Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta đã không chịu sống mãi kiếp nô lệ, một lòng đi theo Đảng đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc... Để tiếp tục phát huy nguồn sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, việc vận dụng bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết càng trở nên có ý nghĩa thiết thực.
Một là, các cấp ủy Ðảng, chính quyền, đoàn thể, ban, ngành chức năng cần phải nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, tầm quan trọng của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Theo đó, những bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn toàn dân tộc cần được kế thừa và phát huy mạnh mẽ trong phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo quốc phòng- an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Hai là, thiết thực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, mỗi cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần, phát huy vai trò của mình trong việc giáo dục, khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân dân; cổ vũ, động viên nhân dân hăng hái tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, địa phương, đơn vị.
Ba là, tiếp tục thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn theo tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo không khí dân chủ để nhân dân tích cực tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội nhằm tăng cường sự đoàn kết, đồng thuận xã hội. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giữ vững kỷ cương, pháp luật, đồng thời, ngăn chặn, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật và quyền làm chủ của nhân dân, gây rối trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, các cấp ủy Đảng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thống chính trị và toàn xã hội, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; gắn bó với nhân dân, giữ vững “thế trận lòng dân”, lắng nghe ý kiến của nhân dân, qua đó động viên nhân dân tích cực tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
Năm là, khơi dậy, bồi dưỡng, phát huy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái, nhân nghĩa, khoan dung và ý thức về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đây là tiền đề để mỗi người dân Việt Nam ở trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài đồng lòng, chung sức xây dựng đất nước; làm cho đại đoàn kết trở thành động lực, nguồn lực tinh thần và vật chất to lớn, để đất nước phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ hội nhập./.
TS Văn Thị Thanh Mai
-----------
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000, t.3, tr.1
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.2, tr. 262
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.2, tr.266
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.1, tr.467
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.11, tr.154
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, H, 2016, tr.158