Chủ trì hội nghị có các đồng chí: Lại Xuân Môn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, Phó trưởng Ban thường trực Ban Chỉ đạo Đề án tổng kết Nghị quyết số 27-NQ/TW; Nguyễn Kim Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phó trưởng Ban Chỉ đạo Đề án; Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ , Phó trưởng Ban Chỉ đạo Đề án; GS.TS. Phùng Hữu Phú, Chủ tịch Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương Phùng Hữu Phú, đại diện Tổ chuyên gia tư vấn tổng kết Nghị quyết số 27-NQ/TW.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, đồng chí Lại Xuân Môn, Phó trưởng Ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, Phó trưởng Ban thường trực Ban Chỉ đạo Đề án tổng kết Nghị quyết số 27-NQ/TW cho biết: Trong gần một năm qua, các ban, bộ, ngành, các tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều cố gắng, thực hiện nghiêm túc việc tổng kết đánh giá thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW.
Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án và Ban Tuyên giáo Trung ương đã làm việc rất tích cực, khẩn trương. Đến nay đã nhận được báo cáo của 63 tỉnh/thành phố và 34 báo cáo của các Ban Cán sự Đảng đoàn, Đảng ủy trực thuộc Trung ương.
Ban Chỉ đạo Đề án cũng đã tổ chức tổng kết 17 cuộc khảo sát tại các địa phương; 14 hội nghị, hội thảo, tọa đàm với 15 chuyên đề để làm rõ lý luận và thực tiễn đặt ra trong 15 năm thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW.
Dự thảo báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27 được xây dựng trên cơ sở: Kết quả theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết; Tổng hợp các báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết của 63 tỉnh ủy, thành ủy; 30 báo cáo của các ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương; Kết quả khảo sát tại các địa phương; Kết quả từ các tọa đàm, hội thảo, hội nghị.
NHẬN DIỆN VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Dự thảo Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27 đánh giá, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, công tác xây dựng đội ngũ trí thức đã đạt được một số kết quả nổi bật như: (1) Nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng về vai trò, vị trí của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác trí thức đã được nâng lên; (2) Sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước ngày càng được tăng cường; khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí tiếp tục được củng cố vững chắc; (3) Đội ngũ trí thức Việt Nam đã phát triển nhanh về số lượng, chất lượng được nâng lên; nhiều trí thức có trình độ cao, năng động, sáng tạo, hoạt động trong nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng; đã tiệm cận một số nước tiên tiến trong khu vực và thế giới ở một số lĩnh vực; tích cực, chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế; từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; (4) Đội ngũ trí thức tham gia công tác lãnh đạo, quản lý không ngừng nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, nâng cao năng lực lãnh đạo và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, quản lý của Nhà nước; môi trường và điều kiện cho hoạt động của trí thức đã và đang được hoàn thiện, hợp tác và hội nhập quốc tế được tăng cường, mở rộng.
Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vẫn còn một số hạn chế và tồn tại như: Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết còn vướng mắc; giữa các ngành, các cấp thiếu sự thống nhất và chưa kịp thời, chưa thường xuyên; một số cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở còn thiếu trách nhiệm trong việc trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra việc thể chế hóa các nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết.
Một số mục tiêu đề ra trong Nghị quyết chưa đạt được; chưa có nhiều cơ sở khoa học, giáo dục, văn hóa, kinh tế mạnh có uy tín ở khu vực và quốc tế; một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm có tiềm năng, lợi thế còn thiếu đội ngũ trí thức trình độ cao, trí thức đầu ngành để đào tạo đội ngũ kế cận và phát huy năng lực cống hiến của trí thức; chưa thực sự thu hút được đông đảo trí thức tham gia hoạt động và cống hiến.
Chất lượng của đội ngũ trí thức chưa thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thiếu trí thức đầu ngành, tổng công trình sư, trí thức có khả năng chủ trì thực hiện các chương trình, dự án nghiên cứu lớn; tỷ lệ trí thức nữ có trình độ cao chưa nhiều. Cơ cấu của đội ngũ trí thức còn bất hợp lý, phân bố không đồng đều giữa các vùng miền, các lĩnh vực, thiếu trí thức cho các vùng khó khăn, cho khu vực doanh nghiệp.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa được hoàn thiện đồng bộ, chậm bổ sung cơ chế, chính sách mới, chưa có chiến lược phát triển đội ngũ trí thức; thiếu cơ chế, chính sách đột phá trong trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức; việc thu hút, trọng dụng trí thức còn nhiều điểm bất cập, chưa sát với thực tiễn cuộc sống; hoạt động giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
4 NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NHỮNG HẠN CHẾ, ĐIỂM NGHẼN CẦN KHẮC PHỤC
Một là, nhận thức, cách hiểu về khái niệm “trí thức” còn có sự khác biệt. Do đó, trong quá trình triển khai thể chế hóa và thực hiện Nghị quyết rất khó phân định giữa trí thức nói chung với “nhân lực khoa học và công nghệ”, “nhân lực chất lượng cao”, “trí thức tinh hoa”, “trí thức nòng cốt", “người có tài năng”, dẫn đến sự lúng túng, cào bằng trong xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh.
Hai là, công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức và tổ chức thực hiện đồng bộ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết thực hiện chưa hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, trước hết là người đứng đầu chưa thực sự quan tâm đến việc thúc đẩy xây dựng, trọng dụng đội ngũ trí thức trong địa bàn, lĩnh vực được giao.
Ba là, xây dựng Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức là vấn đề khó, phức tạp, có nội hàm rất rộng, liên quan đến nhiều văn bản pháp luật ở nhiều lĩnh vực luật; liên quan đến con người, trách nhiệm, nội dung quản lý của nhiều ngành, nhiều cấp, tác động đến trí thức, đội ngũ nhà khoa học, nhân tài đang làm việc trong các ngành nghề, vùng miền khác nhau.
Thứ tư, một bộ phận trí thức là cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu, năng lực, phẩm chất, uy tín hạn chế, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật Nhà nước, phần nào ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.
Phó trưởng Ban thường trực Ban Chỉ đạo Đề án Lại Xuân Môn đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận, làm rõ các nội dung: Bổ sung đánh giá, phân tích sâu sắc hơn về tình hình, kết quả nổi bật, ấn tượng trong 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW; chỉ ra một số hạn chế, điểm nghẽn, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm chính, sâu sắc nhất, trọng tâm nhất. Đồng thời, chia sẻ mô hình cách làm hay, hiệu quả trong thu hút, tập hợp, phát huy vai trò đội ngũ trí thức; phân tích bối cảnh thời cơ thuận lợi, cũng như khó khăn thách thức tác động trực tiếp đến đội ngũ trí thức trong thời gian tới. Cho ý kiến về những quan điểm, mục tiêu chính nhằm xây dựng đội ngũ trí thức và phát huy tối đa vai trò đội ngũ trí thức góp phần phát triển đất nước bền vững và tăng cường hội nhập quốc tế; đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp có trọng tâm, trọng điểm, đột phá, thiết thực, khả thi để giải quyết các vấn đề cốt lõi về công tác trí thức; đặc biệt là các nhiệm vụ, giải pháp gắn liền với trách nhiệm triển khai thực hiện của các cơ quan, đơn vị, của đội ngũ trí thức trong các ngành, lĩnh vực.
Tại hội nghị, các đại biểu cũng đề cập và nhấn mạnh thêm về kết quả đóng góp của đội ngũ trí thức thông qua công tác tư vấn, phản biện, tham mưu, đóng góp ý kiến góp phần vào việc xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; giám định các dự án lớn mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Các ý kiến thống nhất đánh giá về các hạn chế, khuyết điểm trong quá trình triển khai Nghị quyết, như: (1) Một số quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết đến nay vẫn chưa được quán triệt đầy đủ và thực hiện nghiêm túc. Thiếu một chiến lược tổng thể về phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới. (2) Việc huy động các nguồn lực đầu tư cho xây dựng đội ngũ trí thức chưa xứng tầm. (3) Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tính tự chủ trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức chưa được quan tâm đúng mức. (4) Số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ trí thức còn bất hợp lý; vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức chưa được phát huy đầy đủ.
Bên cạnh đó, các đại biểu có ý kiến cần làm rõ thêm một số nút thắt, điểm nghẽn như: (1) Thiếu cơ chế đặc thù, thiếu nguồn lực đãi ngộ, đặc biệt là thiếu nguồn tài chính, nên chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay cơ bản chưa đảm bảo tính hiệu quả, thực chất. (2) Điều kiện để các chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài được hưởng chính sách đãi ngộ còn bất cập, chủ yếu dành cho các chuyên gia đã thành danh, chưa quan tâm nhiều đến các chuyên gia, trí thức trẻ. (3) Một số văn bản luật còn chưa thống nhất và ăn khớp với nhau trong thúc đẩy đội ngũ trí thức khoa học, công nghệ phát triển. (4) Việc thực hiện cơ chế đối thoại, trao đổi giữa cơ quan nhà nước với đội ngũ trí thức, các chuyên gia, các nhà quản lý trong xây dựng chiến lược, định hướng phát triển, pháp luật, chính sách chưa thường xuyên, hiệu quả đạt được chưa cao. (5) Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa công tác đào tạo, tuyển dụng và đãi ngộ.
CẦN SỚM BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT MỚI VỀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Phát biểu kết luận hội nghị, đồng chí Lại Xuân Môn đề nghị Tổ Biên tập Đề án nghiêm túc tiếp thu tối đa các ý kiến phát biểu góp ý của các đại biểu vào Đề án. Ngoài ý kiến phát biểu trên cần quan tâm một số nội dung trọng tâm sau:
Thứ nhất, cần phải nhấn mạnh, làm rõ về kết quả đạt được sau 15 năm thực hiện Nghị quyết so với trước khi chưa ban hành Nghị quyết, có sự khác biệt, nổi trội ở điểm nào?
Thứ hai, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết, nhận diện chỉ ra cho được những điểm nghẽn, nút thắt nào là cơ bản gây cản trở công tác xây dựng đội ngũ trí thức, nhất là những vấn đề tồn tại, thiếu sót kéo dài nhiều năm chưa khắc phục được. Đồng thời phân tích rõ những nguyên nhân cơ bản cốt lõi của các khuyết điểm đó.
Thứ ba, phân tích sâu sắc lý luận và thực tiễn bối cảnh tình hình mới đối với thế giới và trong nước tác động trực tiếp tới đội ngũ trí thức như cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, công nghệ số; trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây...
Thứ tư, về dự thảo Nghị quyết cần nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm, thứ tự ưu tiên, có thí điểm, có tính đột phá, ngắn gọn, rõ ràng, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm, dễ triển khai, thực hiện và kiểm tra, giám sát. Đồng thời liên hợp gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với các Nghị quyết Trung ương Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa 13 liên quan đến xây dựng đội ngũ trí thức, góp phần thực hiện chiến lược đưa đất nước trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Những ý kiến đóng góp sẽ được Ban Chỉ đạo Đề án, Ban Tuyên giáo Trung ương tiếp thu nhằm hoàn thiện các sản phẩm Đề án, bảo đảm chất lượng, tiến độ, trình Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII./.
Tin, ảnh: Nhật Minh