Phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân phản ánh bản chất của chế độ chính trị, tính tất yếu của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (năm 1930) khẳng định, sau khi giành được độc lập dân tộc, cách mạng Việt Nam sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội để nhân dân ta không phải chịu cảnh khổ đau, bị áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Trước đó, trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (năm 1927), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh xem các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ đều là những cuộc cách mạng “không đến nơi” (không triệt để), sau nhiều lần làm cách mạng mà nhân dân các nước đó vẫn phải chịu cảnh áp bức, bất công; còn “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi (...). Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”(1). Bằng nhãn quan chính trị sắc bén, dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và dày công khảo nghiệm thực tiễn, Người đã đúc kết: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải quyết được triệt để vấn đề đem lại độc lập cho dân tộc, cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, mọi dân tộc. Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”(2).
Ngay từ lúc khởi đầu và trong suốt tiến trình đổi mới, Đảng ta đã khẳng định dứt khoát: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà làm cho mục tiêu đó đạt được bằng những hình thức, biện pháp hiệu quả hơn, phù hợp với thực tiễn đất nước và đặc điểm thời kỳ quá độ, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí trước đó. Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ (1989 - 1991), Đảng ta đã bình tĩnh, sáng suốt phân tích tình hình, tìm ra nguyên nhân và nhận định rất đúng đắn rằng, đó là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực duy ý chí, chưa phù hợp, không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong bối cảnh đó, việc tìm tòi con đường, phương thức phát triển như thế nào cho phù hợp với từng chặng đường của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi bản lĩnh, trí tuệ và năng lực sáng tạo lý luận của Đảng cầm quyền để vừa kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn, vừa quản trị hiệu quả sự hiện thực hóa mục tiêu ở từng chặng đường của công cuộc đổi mới. Thừa nhận các yếu tố phi xã hội chủ nghĩa còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ, nhưng làm thế nào để phát huy hiệu quả mặt tích cực, chế ước mặt tiêu cực, hướng dẫn, kiểm soát chúng để phục vụ cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa? Làm sao hiện thực hóa được những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội trong đời sống hằng ngày để người dân được chứng thực, thụ hưởng... là thách thức lớn đối với vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của Đảng? Vì vậy, “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”(3) có ý nghĩa rất quan trọng giải quyết thách thức nêu trên. Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác lập quan điểm biện chứng về định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới, khắc phục những biểu hiện nóng vội, chủ quan, đốt cháy giai đoạn; hoặc không thấy hết tính gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giữa yếu tố xã hội chủ nghĩa với yếu tố phi xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; hoặc nhận thức phiến diện, sai lầm về chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Qua mỗi nhiệm kỳ đại hội của thời kỳ đổi mới, Đảng ta lại có bước phát triển nhận thức về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là nhiệm kỳ Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng. Tuy vậy, có nơi, có lúc vẫn chưa nhận thức thấu đáo về định hướng xã hội chủ nghĩa. Không ít người chỉ nhìn vào mặt hiện tượng, không nắm bắt, hiểu rõ mặt bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại; có người đối diện với những tiêu cực trong nền kinh tế thị trường, như phân hóa giàu nghèo, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,... nảy sinh hoài nghi về định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra cách nhìn biện chứng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta với tư cách là “một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội (...). Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”(4). Ở đây, phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân gắn liền với định hình đặc trưng, thuộc tính của định hướng xã hội chủ nghĩa; hàm ý phân biệt với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hoàn chỉnh; tương phản với các mô hình “phát triển xấu” trong chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Khắc phục những nhận thức phiến diện, nhầm lẫn giữa hình thức và nội dung, hiện tượng và bản chất, giữa tính cố hữu của chủ nghĩa tư bản với một số cải thiện về phúc lợi cục bộ, bề ngoài trong chủ nghĩa tư bản hiện đại,... bài viết đã “giải phẫu” những căn bệnh trầm kha hằn lên cơ thể chủ nghĩa tư bản hiện đại, gây nên các cuộc khủng hoảng nhiều mặt, đẩy bất công xã hội ngày càng sâu sắc. Đó chính là phát triển thiếu đạo lý khi tầng lớp giàu có chỉ chiếm 1% dân số lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu; một tỷ lệ lớn dân chúng rơi vào cảnh cùng cực, đói nghèo, thất học, xung đột xã hội gay gắt, điển hình là phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011(5). Đó là phát triển không có nền tảng khi tăng trưởng chỉ dựa trên khai thác sức lao động con người mà không quan tâm đến tái tạo, bồi dưỡng năng lực con người, năng lực xã hội, không tạo cơ hội cho con người phát triển toàn diện, dù các chính thể tư sản không ngớt lời “rao giảng” về quyền con người. Đó là phát triển thiếu bền vững khi thế hệ hôm nay tước đoạt khả năng phát triển của các thế hệ tương lai, bòn rút cạn kiệt tài nguyên, gây nên suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu. Đó là phát triển thiếu hài hòa khi sản xuất và tiêu dùng vật chất vô hạn độ, thiếu cân bằng giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, đẩy tới lệch chuẩn về giá trị, lệch lạc về lối sống, mà trong nhiều trường hợp của cải tăng lên nhưng con người lại phải đối mặt nhiều hơn với bất an, rủi ro, thiếu an toàn, không có hạnh phúc thật sự.
Điều đó cắt nghĩa tính tất yếu của định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, lấy phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân làm một nội dung cơ bản. Chủ nghĩa tư bản tự thân nó không có khả năng bảo đảm phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân. Đối với chủ nghĩa tư bản, việc bảo đảm công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân là điều “xa xỉ”, chủ yếu tồn tại trong các khẩu hiệu mang màu sắc dân túy. Trong khi đó, phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân lại là nhu cầu tự thân của chủ nghĩa xã hội. Phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân trở thành một nội dung quan trọng cấu thành đặc trưng, thuộc tính cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa, khác biệt với một số cải thiện phúc lợi xã hội cục bộ, bề ngoài trong chủ nghĩa tư bản hiện đại nhằm xoa dịu mâu thuẫn giai cấp, giảm thiểu xung đột xã hội, không giải quyết được triệt để những vấn đề căn bản của phát triển và quản lý phát triển.
Biện chứng của phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân gắn với định hình những đặc trưng cơ bản, thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường
Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lần đầu tiên đã khái quát “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”(6). Đây là cống hiến cực kỳ quan trọng về lý luận, xác lập quan điểm biện chứng về phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, gắn với định hình đặc trưng, thuộc tính cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Một là, phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân khi được xem là một nội dung cơ bản cấu thành đặc trưng cơ bản, thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường thì chúng phải được đặt đúng tầm; xem nhẹ phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân là một biểu hiện của chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Một mặt, “không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”(7); mặt khác, phải tránh chủ quan, nóng vội, duy ý chí, lấy tiêu chí tiến bộ, công bằng xã hội của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở trình độ phát triển đầy đủ, hoàn chỉnh để áp đặt lên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở những trình độ phát triển khác nhau. Các biểu hiện của bệnh chủ quan, duy ý chí thường thấy là: 1- Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội không đặt trong mối quan hệ biện chứng với chính sách kinh tế, dồn nguồn lực cho bảo đảm phúc lợi xã hội vượt quá khả năng đáp ứng của nền kinh tế nên hạn chế đến đầu tư cho phát triển, khiến kinh tế rơi vào trì trệ, không có đủ điều kiện vật chất để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội về dài hạn.; 2- Không thấy được tính đa dạng của cơ chế, hình thức phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để vừa đạt được công bằng xã hội, vừa tạo động lực cho phát triển; 3- Chỉ tập trung cho tăng trưởng và phát triển trước mắt, ngắn hạn, mà không quan tâm đến khả năng phát triển bền vững trong tương lai, dài hạn, nhất là khai thác cạn kiệt nguồn lợi tự nhiên, gây suy thoái môi trường.
Hai là, phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân được thể hiện ở sự thống nhất biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, được đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết, tùy thuộc và thúc đẩy lẫn nhau. Phải làm cho “mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”(8). Đặt trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Công nghiệp 4.0), khi mà các nguồn lực tự nhiên dần khan hiếm, nguồn lực con người và khoa học - công nghệ đóng vai trò trụ cột cho tăng trưởng bền vững, thì chính sách xã hội đúng đắn, đầu tư cho phát triển con người chính là đầu tư cho phát triển bền vững. Điều đó đòi hỏi phải khơi dậy động lực cho phát triển bền vững từ cả lĩnh vực văn hóa - xã hội, từ phát huy các tiềm năng, sức mạnh con người; phải khắc phục những nhận thức lệch lạc khi xem văn hóa, xã hội thụ hưởng một chiều thành quả của tăng trưởng kinh tế, mà không thấy chiều ngược lại - văn hóa, xã hội tạo động lực cho phát triển kinh tế.
Ba là, phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân thể hiện ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều này hàm nghĩa rằng, tiến bộ và công bằng xã hội không chỉ là mục tiêu hướng tới, mà còn phải được hiện thực hóa ở từng bước đi, thể hiện trong từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển của thời kỳ quá độ. Ở mỗi chặng đường phát triển của đất nước, gắn với những thành tựu đạt được về tăng trưởng kinh tế phải phân bổ hợp lý thành quả tăng trưởng cho thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Trong điều kiện phát triển bình thường phải có kế hoạch dự trữ, dự phòng để lúc gặp rủi ro, khó khăn, khủng hoảng vẫn có nguồn lực bảo đảm chính sách xã hội, như ứng phó với dịch bệnh COVID-19 đang diễn ra. Mỗi chính sách phát triển đều mang tính đa mục tiêu, phải bảo đảm tính thống nhất giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội, cùng thúc đẩy nhau để đạt được hiệu quả tổng hợp. Chính sách kinh tế (đầu tư, tài khóa, tín dụng, thương mại, giá cả, thu nhập...) phải hướng vào tạo việc làm bền vững, bảo đảm quyền của người lao động, cân đối sự phát triển hài hòa giữa các vùng, miền, phân phối lại thu nhập để thực hiện công bằng xã hội, đầu tư vào phát triển năng lực con người, năng lực xã hội, cải thiện mức sống và chất lượng sống của nhân dân. Chính sách xã hội (giáo dục, y tế, văn hóa, việc làm, thu nhập, bảo hiểm xã hội, ưu đãi xã hội, trợ giúp xã hội,...) phải hướng đến góp phần đắc lực vào đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng, lấy nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ làm động lực chủ yếu cho tăng trưởng; phát triển thị trường lao động ổn định, hài hòa, bền vững; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Bốn là, phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân được thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú, cơ chế đa dạng; từ công bằng về cơ hội, công bằng về phân phối kết quả sản xuất, đến công bằng về quyền và nghĩa vụ; từ bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội đến bền vững về môi trường. Công bằng về cơ hội trước hết thể hiện ở việc xác định thị trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực(9), làm cho nguồn lực hướng đến chỗ sử dụng hiệu quả, người có năng lực luôn khẳng định được bản thân mình trong nền sản xuất xã hội, làm giàu hợp pháp được khuyến khích(10). Công bằng về cơ hội còn được tạo ra bằng việc bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ công cộng cơ bản, thiết yếu miễn phí hoặc phí sử dụng thấp (giáo dục, y tế, văn hóa...), làm cho mọi thành viên trong xã hội được nâng cao trình độ học vấn, văn hóa, sức khỏe,... tạo nền tảng cho phát triển bền vững và có cơ hội vươn lên. Đó chính là bảo đảm bình đẳng về quyền đi đôi với bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền(11). Công bằng về phân phối kết quả sản xuất được bảo đảm thông qua nhiều cơ chế phân phối, như phân phối lần đầu dựa vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo vốn và các nguồn lực đóng góp; phân phối lại thông qua hệ thống phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và các hình thức tương trợ, chia sẻ trong cộng đồng. Trong đó, phân phối theo lao động là hình thức chủ yếu. Công bằng xã hội trong chế độ ta còn phản ánh ở chính sách ưu đãi xã hội, chăm sóc người có công với nước(12)... với ý nghĩa đền ơn, đáp nghĩa, bù đắp một phần trước những cống hiến, hy sinh xương máu cho đất nước, cho sự nghiệp cách mạng. Công bằng về quyền và nghĩa vụ thể hiện ở sự tương xứng giữa đóng góp và thụ hưởng, giữa mức độ vi phạm và mức độ bị xử lý, thông qua các cơ chế tài phán dựa trên công lý, nền tảng pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các hình thức công bằng nêu trên có vai trò bổ sung cho nhau, vừa tạo động lực cho phát triển, vừa thúc đẩy công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước đi và trong suốt thời kỳ quá độ.
Năm là, phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân được tiến hành trên cơ sở xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp gồm cả ba mặt quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối đặt trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội(13). Cả ba mặt của quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng, tương tác, thúc đẩy nhau, có ý nghĩa trực tiếp bảo đảm phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân. Quan hệ sở hữu có vai trò quyết định nhất, nhưng trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nên phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò, chức năng của từng mặt quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối có ý nghĩa rất quan trọng cho bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực cho phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, cần áp dụng linh hoạt các hình thức “sở hữu công, quản trị tư”(14), “sở hữu tư, sử dụng công”(15). Hoặc quan hệ phân phối phải hướng tới “chức năng kép”, vừa bảo đảm công bằng xã hội, vừa tạo động lực phát triển(16), làm cho mọi chủ thể xã hội luôn thấy được lợi ích trực tiếp đối với mọi nguồn lực (như đất đai, các tài sản thuộc sở hữu nhà nước...), sử dụng hiệu quả, có trách nhiệm, không ngừng tìm tòi, đổi mới, tối ưu hóa hiệu quả quản lý, thúc đẩy phát triển bền vững.
Sáu là, xử lý tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, lấy vai trò Nhà nước làm chủ đạo khi hoạch định và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân. Các thành tố Nhà nước, thị trường và xã hội có vai trò bổ sung, bù đắp thiếu hụt cho nhau, cùng nhau thúc đẩy sự phát triển. Kinh tế thị trường có mặt tích cực là phân bổ hiệu quả nguồn lực, thúc đẩy tính năng động, sáng tạo của các chủ thể trên thị trường, phát triển sức sản xuất, nhưng mặt hạn chế của nó là thường chú ý đến các nhu cầu có khả năng thanh toán, nguồn lực hướng đến nơi có khả năng sinh lời, nên không chú trọng sản xuất các hàng hóa, dịch vụ công cộng, thậm chí vì chạy theo lợi nhuận mà nhiều doanh nghiệp sẵn sàng hy sinh lợi ích công cộng (như gây ô nhiễm môi trường, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm...)(17). Từ đó gây nên phân hóa giàu nghèo, phân cực của cải, chênh lệch trình độ phát triển giữa các vùng, miền, đe dọa đến khả năng phát triển bền vững. Vì vậy, phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân trước hết và trên hết cần phải tăng cường vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong kiến tạo thể chế, luật pháp công bằng để tạo môi trường cho mọi tổ chức và cá nhân tự do hoạt động; sử dụng các công cụ (kế hoạch, quy hoạch, chính sách thuế, chính sách đầu tư, chính sách tín dụng, chính sách việc làm...) để hướng dẫn, lôi cuốn, điều tiết hoạt động của mọi thành phần kinh tế, trong đó có điều tiết lợi ích bảo đảm công bằng xã hội, phát triển bền vững, vì con người; đổi mới, nâng cao năng lực hoạt động các tổ chức khu vực công, nhất là trong sản xuất và cung ứng các hàng hóa, dịch vụ công cộng mà xã hội có nhu cầu nhưng tư nhân không làm hoặc làm không hiệu quả. Cùng với đó, phát triển công bằng, bền vững chỉ có thể được thực hiện đầy đủ khi tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; nâng cao ý thức chia sẻ, tinh thần tương thân, tương ái của cộng đồng xã hội; phát huy tính tích cực của mỗi người dân khi tham dự vào quan hệ thị trường, sử dụng các dịch vụ công cộng có trách nhiệm, tích cực, không dựa dẫm, ỷ lại, trông chờ.
Những chỉ dẫn cụ thể về phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân gắn với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường
Một là, công bằng xã hội được bảo đảm bằng “thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống phúc lợi xã hội và an sinh xã hội”(18).
- Phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo vốn và nguồn lực đóng góp có ý nghĩa phát huy tính tích cực, năng động sáng tạo của mỗi người, huy động tối đa tiềm năng, sức mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực được phân bổ hiệu quả, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa quan hệ phân phối với quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý trong nền kinh tế nhiều thành phần. Đây chính là phân phối lần đầu, tạo động lực phát triển khi nó mang lại lợi ích trực tiếp cho người lao động, nhà quản lý, chủ sở hữu, chủ đầu tư, khiến nguồn lực sử dụng hiệu quả, phát huy sức sáng tạo của mỗi người để làm giàu chính đáng cho mình và đóng góp cho xã hội. Khi các quan hệ nêu trên vận hành trơn tru trong thể chế kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, chính là bảo đảm quyền bình đẳng về cơ hội làm giàu cho mọi chủ thể trên thị trường. Song, bình đẳng về cơ hội làm giàu bao giờ cũng mang lại lợi thế cho những người có năng lực tận dụng cơ hội; bất lợi thế cho những người bị hạn chế hoặc khiếm khuyết về thể chất, tinh thần, về năng lực tận dụng cơ hội (vì các lý do bẩm sinh, rủi ro xã hội hoặc rào cản của điều kiện tự nhiên, văn hóa - xã hội,...), nên cần được bù đắp, bổ khuyết bằng hình thức phân phối qua phúc lợi xã hội và an sinh xã hội.
- Phân phối thông qua phúc lợi xã hội có ý nghĩa quan trọng góp phần khắc phục, giảm thiểu bất công xã hội phát sinh từ phân phối lần đầu. Phân phối qua phúc lợi xã hội gắn với vai trò điều tiết của Nhà nước, phát huy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chia sẻ của cộng đồng xã hội, lấy vai trò của Nhà nước làm chủ đạo. Phúc lợi xã hội trong nền kinh tế thị trường được thực hiện bằng nhiều hình thức đa dạng, trụ cột là dịch vụ công cơ bản, thiết yếu miễn phí hoặc phí sử dụng thấp (giáo dục, y tế, văn hóa...). Phúc lợi xã hội do Nhà nước chịu trách nhiệm toàn phần (chi trả phí, tổ chức cung ứng), bảo đảm quyền tiếp cận bình đẳng cho mọi thành viên xã hội đối với các dịch vụ công cộng cơ bản, thiết yếu, không loại trừ bất cứ ai. Các hình thức phúc lợi xã hội mang chức năng an sinh lại hướng tới một số đối tượng cụ thể, như hỗ trợ bằng ngân sách cho những người gặp rủi ro (như đợt dịch bệnh COVID-19), hỗ trợ người nghèo mua bảo hiểm y tế, hỗ trợ học bổng cho sinh viên nghèo,... bảo đảm các đối tượng yếu thế, người thu nhập thấp, kém may mắn được tiếp cận các hàng hóa, dịch vụ công cộng cơ bản, thiết yếu. Khi được tiếp cận các hàng hóa, dịch vụ công cộng cơ bản, thiết yếu miễn phí (hoặc được hỗ trợ tài chính để chi trả phí dịch vụ), các đối tượng này không chỉ được nâng cao năng lực nội sinh (thể chất, tri thức, văn hóa...), mà còn có điều kiện dành nguồn tài chính eo hẹp của mình để chi tiêu cho cải thiện chất lượng sống, nhờ đó có cơ hội phát triển. Ngoài ra, Nhà nước còn hỗ trợ, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia cung ứng một số dịch vụ xã hội đáp ứng theo yêu cầu cá nhân và khả năng thanh toán của người tiêu dùng dựa trên nguyên tắc thị trường.
- Phân phối qua hệ thống an sinh xã hội dựa trên cơ chế đóng - hưởng và chia sẻ, bảo đảm mọi thành viên xã hội luôn duy trì thu nhập tối thiểu, không rơi vào cùng cực khi gặp rủi ro, mất sức lao động, thất nghiệp - trụ cột là việc làm bền vững, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Nếu như phân phối lần đầu bảo đảm công bằng giữa mức đóng góp và mức nhận được, tạo động lực cho phát triển, nhưng lại gây bất bình đẳng về thu nhập giữa các thành viên xã hội; phân phối lại qua phúc lợi xã hội tạo bình đẳng về cơ hội, điều kiện phát triển, nhưng cũng dễ gây trì trệ cho các đơn vị cung ứng và tạo tâm lý dựa dẫm, ỷ lại cho người sử dụng dịch vụ công cộng miễn phí; thì phân phối lại qua hệ thống an sinh xã hội dựa trên cơ chế đóng - hưởng và chia sẻ giữa các thành viên xã hội có chức năng bổ sung, bù đắp cho hạn chế, khiếm khuyết của phân phối lần đầu và phân phối lại thông qua phúc lợi xã hội. Ở đây, công bằng xã hội không chỉ phản ánh tương quan giữa mức đóng góp và mức nhận được của một cá nhân, mà phải đặt chúng trong mặt bằng chung, trình độ phát triển kinh tế và các giá trị đạo đức xã hội. Không thể nói đến công bằng xã hội toàn diện khi một nhóm xã hội này được hưởng cuộc sống giàu sang, mà bỏ lại phía sau những người yếu thế, kém may mắn, do các yếu tố bẩm sinh hoặc rào cản của điều kiện địa lý - tự nhiên, văn hóa, xã hội. Khắc phục những hình thức bất công xã hội mang tính tự nhiên ấy rất cần đến vai trò của hệ thống phân phối dựa trên cơ chế chia sẻ giữa các thành viên xã hội. Đó chính là sự phát triển của một xã hội “hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm”(19).
Hai là, công bằng, bình đẳng về cơ hội dựa trên tôn trọng, bảo đảm tự do cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, không để xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh làm mất đi hiệu lực, mặt tích cực của cơ chế thị trường; tạo môi trường, điều kiện, nền tảng cho con người phát triển toàn diện khi toàn dân được tiếp cận các dịch vụ công cộng cơ bản, thiết yếu.
- Công bằng về cơ hội trước hết dựa trên tôn trọng tự do cạnh tranh hợp pháp, lành mạnh, không cho phép xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh làm mất đi hiệu lực, mặt tích cực của cơ chế thị trường; làm cho mỗi chủ thể thị trường, mỗi thành viên xã hội xứng đáng có được lợi ích hợp pháp, chính đáng từ phát huy năng lực, phẩm chất vốn có của chính mình mà không gây tổn hại đến đến quyền, lợi ích chính đáng của chủ thể khác; bảo đảm lợi ích của mỗi cá nhân vận động cùng chiều với lợi ích chung của xã hội. Can thiệp của Nhà nước không được làm méo mó thị trường, mà bảo đảm cho cạnh tranh diễn ra lành mạnh, sửa chữa khuyết tật của thị trường, hướng tới thị trường minh bạch, để công bằng về cơ hội được thiết lập. Công bằng về cơ hội trong trường hợp này tạo động lực cho phát triển, trái ngược với cạnh tranh kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, “cá nhanh nuốt cá chậm”, sự phát triển của nhóm xã hội này loại trừ quyền phát triển của nhóm xã hội khác như trong chủ nghĩa tư bản(20). Nó cũng khác biệt với chủ nghĩa bình quân, cào bằng, đồng nhất giữa người có năng lực và người kém năng lực, người siêng năng và người lười biếng, làm triệt triêu động lực phát triển, gây bất công đối với người cống hiến nhiều mà được phân phối ngang bằng người cống hiến ít. Công bằng về cơ hội không chỉ trong quan hệ kinh tế, mà biểu hiện trên mọi mặt quan hệ chính trị - xã hội khi bảo đảm môi trường dân chủ, tự do cho những người thực đức, thực tài được trọng dụng, cống hiến, phấn đấu khẳng định mình và đóng góp tích cực cho xã hội.
- Công bằng về cơ hội dựa trên bảo đảm quyền tiếp cận các nguồn lực cho phát triển, nhất là nguồn lực đất đai, tài chính, tín dụng, thông tin. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh đến áp dụng nguyên tắc thị trường trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực, nhất là nguồn lực của Nhà nước, như đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu các gói mua sắm công, cạnh tranh trong cung ứng và thực hiện cơ chế giá thị trường đối với các hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản(21). Nguồn lực tài chính nhà nước chi tiêu cho bảo đảm phúc lợi xã hội mang chức năng an sinh cũng áp dụng phù hợp nguyên tắc thị trường, hướng đến mục tiêu phát huy năng lực tự vươn lên của đối tượng được nhận hỗ trợ từ Nhà nước, không gây trì trệ, dựa dẫm, ỷ lại. Đó chính là hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội, bảo đảm quyền tiếp cận tín dụng chính sách của hộ nghèo; hỗ trợ sinh viên nghèo các khoản tín dụng ưu đãi; hỗ trợ đào tạo nghề để chuyển đổi sinh kế cho người dân,... nhằm thúc đẩy tính tích cực của người nhận hỗ trợ nguồn lực từ phía Nhà nước. Trong điều kiện chính quyền số, các nguồn tài nguyên số khi được người dân và doanh nghiệp tiếp cận một cách bình đẳng, công khai, minh bạch sẽ khắc phục tình trạng bất cân xứng thông tin, góp phần thúc đẩy công bằng về cơ hội phát triển.
- Công bằng về cơ hội phát triển dựa trên bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ công cộng cơ bản, thiết yếu (giáo dục, y tế, văn hóa...) bao phủ toàn dân, giúp cho mọi người nâng cao năng lực nội sinh, tự chủ bản thân, có điều kiện tận dụng các cơ hội để vươn lên, nhờ được chăm sóc phát triển thể chất, nâng cao trình độ học vấn, văn hóa. Giáo dục thật sự là quốc sách hàng đầu, thực hiện giáo dục miễn học phí với bậc tiểu học, từng bước chuyển các cơ sở giáo dục mầm non bán công thành cơ sở giáo dục mầm non công lập, dành tỷ lệ thích đáng ngân sách chi tiêu cho giáo dục - đào tạo,... nhằm thúc đẩy công bằng về cơ hội phát triển cho người dân nhờ được trang bị học vấn, tri thức, kỹ năng. Đó là chi tiêu ngân sách phù hợp cho phát triển hệ thống y tế, hỗ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số mua bảo hiểm y tế, bảo đảm người có thu nhập thấp được khám, chữa bệnh mà không bị “nghèo hóa”. Đó là đầu tư vào phát triển văn hóa, các không gian công cộng (công viên, cây xanh, ao hồ, cải thiện môi trường sống...) để nâng cao phúc lợi phi thu nhập cho người dân, làm cho mọi người có điều kiện rèn luyện sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm lý, phát triển năng lực khi có sự hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Ba là, công bằng giữa quyền và nghĩa vụ gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ trật tự pháp luật, kỷ cương, phép nước.
Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phân biệt rõ sự khác nhau về bản chất giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp quyền tư sản. Nếu như pháp quyền tư sản là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, thì pháp quyền dưới chế độ ta là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân(22). Như vậy, công bằng ở đây được thể hiện ở sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật; trong hoạt động kinh doanh, đó là bình đẳng của mọi chủ thể thị trường trước pháp luật để thực hiện tự do kinh doanh, mọi tranh chấp được giải quyết theo phương thức giải quyết tranh chấp được pháp luật quy định hoặc được các bên thỏa thuận (hòa giải, thương lượng, trọng tài hoặc tòa án); trong hoạt động tư pháp, đó là công bằng giữa tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật và mức độ bị trừng trị bởi pháp luật với các quyết định, bản án công tâm, khách quan, nhân danh công lý.
Bốn là, phát triển bền vững được đề cập thông qua nhận diện các cuộc khủng hoảng đang diễn ra như hệ quả tất yếu của các mô hình “phát triển xấu” trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, cho thấy tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái(23). Vì vậy, một nội dung quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa là bảo đảm sự phát triển bền vững, hài hòa với tự nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường(24). Đó còn là việc xác định con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh(25).
Năm là, phát triển vì hạnh phúc của nhân dân thể hiện bao trùm trong mọi nội dung bảo đảm phát triển công bằng, bền vững; ở sự hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; ở mỗi người có điều kiện phát triển toàn diện năng lực của chính mình để khẳng định phẩm giá làm người; ở con người được sống trong môi trường tự do, an toàn, đoàn kết, nhân ái, tương trợ, loại trừ áp bức, bất công. Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhắc đến khái niệm “hạnh phúc” trong các ngữ cảnh: nêu cao giá trị tư tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh(26), tiếp tục khẳng định các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu trong Cương lĩnh(27), trong xây dựng gia đình hạnh phúc(28), trong mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu(29)...
***
Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được công bố trong bối cảnh Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta đang nỗ lực triển khai thực hiện đường lối Đại hội XIII của Đảng, phấn đấu đưa nước ta đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Làm rõ vấn đề phát triển công bằng, bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân gắn với định hình đặc trưng cơ bản, thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa bổ sung, phát triển lý luận về thời kỳ quá độ ở Việt Nam, bảo đảm quản trị hiệu quả sự hiện thực hóa mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong từng chính sách, từng bước đi và trong suốt quá trình đổi mới đất nước./.
PGS. TS. ĐOÀN MINH HUẤN
Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Nguồn: TCCS
------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 292
(2), (3) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 966, tháng 5-2021, tr. 6, 8
(4) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 8
(5) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 5
(6), (7), (8) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 8, 8, 8 – 9
(9) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 133
(10), (11), (12) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 9, 5, 9
(13) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 8
(14) Như hạ tầng kỹ thuật thuộc sở hữu nhà nước, nhưng thuê tư nhân vận hành, quản trị, khai thác; đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, nhưng quyền sử dụng đất giao cho các tổ chức, cá nhân và được xem là quyền tài sản...
(15) Như Nhà nước thuê lại các công trình thuộc sở hữu tư nhân để sử dụng thay vì bỏ ngân sách đầu tư tốn kém, dễ thất thoát, nhưng Nhà nước lại có quyền đánh thuế tài sản, thuế thu nhập trên tài sản đó đối với tư nhân
(16) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 8
(17) Xem: Đoàn Minh Huấn: “Những vấn đề đặt ra về xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề “Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay”, Số 1-2021, tr. 28
(18) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 8
(19) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 9
(20) Xem: Nguyễn Phú Trọng, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 6
(21) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 132
(22), (23), (24), (25), (26), (27), (28), (29) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 10, 4 - 5, 6, 9, 6, 7, 9, 9