1. Phát
triển bền vững là một nguyên tắc cơ bản trong chiến lược phát triển đất
nước nói chung và ngành du lịch nước ta nói riêng. Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng xác định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào
khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”(1),
“Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một
ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho
các thế hệ mai sau”(2). Quyết định số 432/QĐ-TTg, ngày
12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển bền
vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020” nhấn mạnh quan điểm phát triển bền
vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước, kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã
hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường... “Chiến lược quốc gia về tăng
trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050” (được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 1/10/2021) đã phê
duyệt 4 mục tiêu cụ thể phấn đấu đến năm 2030, như giảm phát thải khí
nhà kính; xanh hóa các nền kinh tế; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu
dùng bền vững; xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng,
bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu; đồng thời, định hướng phát triển
các ngành, lĩnh vực chủ yếu, trong đó có việc thúc đẩy quá trình chuyển
đổi xanh trong ngành du lịch.
Đối
với ngành du lịch, phát triển bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường,
giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang là yêu cầu được đặt
ra. Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị, về “Phát
triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn” đã nhấn mạnh quan điểm
phát triển du lịch bền vững; bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên
nhiên...; đồng thời, xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong
phát triển du lịch là tập trung phát triển sản phẩm du lịch biển, đảo,
du lịch văn hóa, tâm linh, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng có sức
hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. Điều 4, Luật Du lịch quy định nguyên
tắc phát triển du lịch bền vững, theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
có trọng tâm, trọng điểm; phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa dân tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi
thế của từng địa phương và tăng cường liên kết vùng.
Trên
cơ sở xác định vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội,
trước yêu cầu phát triển bền vững, ngành du lịch đã đưa sản phẩm du lịch
văn hóa trở thành một trong những dòng sản phẩm quan trọng hàng đầu
được thúc đẩy phát triển trong “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2030”, đồng thời nhấn mạnh phát triển du lịch bền vững trên nền
tảng tăng trưởng xanh, tối đa hóa sự đóng góp của du lịch cho các mục
tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc... Chú trọng phát triển du
lịch văn hóa, gắn phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy giá trị di
sản và bản sắc văn hóa dân tộc. “Chiến lược phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã xác định
du lịch văn hóa là một trong những ngành công nghiệp văn hóa quan trọng
mà Việt Nam có nhiều lợi thế, tiềm năng để phát triển và có nhiều đóng
góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, góp phần
quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Ngày
11/12/2020, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng ban hành Quyết định số
3767/QĐ-BVHTTDL phê duyệt Đề án Xây dựng thương hiệu quốc gia về du lịch
văn hóa, trong đó khẳng định thương hiệu du lịch văn hóa Việt Nam được
định vị dựa trên giá trị văn hóa đặc sắc, tập trung vào giá trị di sản
và giá trị văn hóa ẩm thực, qua đó hình thành hệ thống điểm đến, sản
phẩm du lịch đặc trưng, có chất lượng, giá trị cao và được thị trường
đón nhận tích cực; phấn đấu đến năm 2030, du lịch văn hóa chiếm 20% -
25% trong tổng số khoảng 130 tỷ USD tổng thu từ khách du lịch. Trước khi
xảy ra đại dịch COVID-19, du lịch Việt Nam đã đạt được những dấu mốc
quan trọng và du lịch văn hóa, du lịch sinh thái đã có những đóng góp
tích cực vào kết quả đó.
2. Thời
gian qua, ngành du lịch đã không ngừng nỗ lực, đa dạng hóa sản phẩm du
lịch để thu hút khách và phát triển theo hướng bền vững. Theo số liệu
của Tổng cục Du lịch (nay là Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam - tên được
đổi từ ngày 1/7/2023 theo Quyết định số 1536/QĐ-BVHTTDL, ngày 15/6/2023
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch “Quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam”), trong
giai đoạn 2010 - 2019, du lịch Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc.
Lượng khách du lịch quốc tế tăng từ 5 triệu lên 18 triệu (tăng 3,6 lần);
đặc biệt giai đoạn 2015 - 2019 là giai đoạn tăng trưởng nhanh nhất, từ
7,9 triệu lên 18 triệu (tăng gần 2,3 lần); tốc độ tăng trưởng bình quân
khách quốc tế đạt 22,7%/năm; lượng khách nội địa tăng từ 57 triệu lượt
lên 85 triệu lượt (tăng 1,5 lần). Tổng thu từ du lịch tăng từ 355 nghìn
tỷ đồng lên 755 nghìn tỷ đồng (tăng 2,1 lần). Năm 2019, toàn ngành đã
đón hơn 18 triệu lượt khách quốc tế (tăng 16,2% so với năm 2018), phục
vụ 85 triệu lượt khách nội địa, tổng thu đạt khoảng 755.000 tỷ đồng,
đóng góp 9,2% GDP, tạo ra 2,5 triệu lao động trực tiếp và gián tiếp(3).
Trong 7 tháng đầu năm 2023, tổng số khách nội địa đạt 76,5 triệu lượt;
tổng lượng khách quốc tế đạt gần 6,6 triệu lượt, tương đương 83% kế
hoạch năm 2023. Tổng thu từ khách du lịch 7 tháng đầu năm ước đạt 416,6
nghìn tỷ đồng. Nhiều khả năng ngành du lịch sẽ sớm hoàn thành mục tiêu
và còn nhiều dư địa để tiếp tục tăng trưởng khi bước vào mùa cao điểm du
lịch quốc tế cuối năm(4).
Việt
Nam được đánh giá là một trong 10 quốc gia có mức tăng trưởng du lịch
nhanh nhất thế giới. Hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động du lịch
ngày càng rõ nét, góp phần tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa
và dịch vụ, thúc đẩy các ngành khác phát triển, khôi phục nhiều lễ hội
và nghề thủ công truyền thống, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo
nhiều việc làm, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện diện mạo và đời
sống người dân ở nhiều nơi trên cả nước, tiêu biểu như ở Sa Pa (tỉnh Lào
Cai), Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh), Cát Bà (thành phố Hải Phòng), Sầm Sơn
(tỉnh Thanh Hóa), Cửa Lò (tỉnh Nghệ An), Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế), Hội
An (tỉnh Quảng Nam), Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa), Mũi Né (tỉnh Bình
Thuận), một số địa phương đồng bằng sông Cửu Long... Trong đó, việc gắn
kết giữa du lịch với bảo tồn giá trị văn hóa, môi trường sinh thái ngày
càng được đẩy mạnh và có nhiều đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương, thúc đẩy sự phát triển du lịch bền vững.
Về du lịch văn hóa: Việt
Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng, lợi thế trong xây dựng, phát triển
các sản phẩm và dịch vụ du lịch văn hóa với hơn 40.000 di tích, trong đó
có hơn 10.000 di tích cấp tỉnh, hơn 3.600 di tích quốc gia, 128 di tích
quốc gia đặc biệt, 15 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh(5)...
Trên cơ sở khai thác, phát huy các giá trị di sản văn hóa, nhiều địa
phương trên cả nước đã và đang hình thành, phát triển các sản phẩm du
lịch văn hóa khá đa dạng, như tuyến du lịch kết nối di sản thế giới các
nước ASEAN, tuyến du lịch di sản miền Trung, festival Huế, festival biển
Nha Trang, lễ hội carnaval biển Hạ Long, festival hoa Đà Lạt, các lễ
hội ẩm thực và trái cây ở các tỉnh, thành phố trên cả nước; các chương
trình nghệ thuật đặc sắc, như “Ký ức Hội An”, “Tinh hoa Bắc Bộ”, “À Ố
Show”... Bên cạnh đó, các tuyến du lịch làng nghề thời gian qua cũng là
sự lựa chọn hàng đầu đối với khách quốc tế khi đến Việt Nam. Trước khi
đại dịch COVID-19 bùng phát, năm 2016, chỉ riêng các di sản thế giới ở
Việt Nam đã đón 14,3 triệu khách, doanh thu khoảng 1.776 tỷ đồng; năm
2019 tăng lên khoảng 18,2 triệu khách, doanh thu khoảng 2.322 tỷ đồng.
Du lịch Việt Nam liên tục được đánh giá cao ở nhiều cuộc bầu chọn và
giải thưởng quốc tế. Năm 2018, 2019, 2020, Việt Nam liên tiếp nhận danh
hiệu Điểm đến hàng đầu châu Á, Điểm đến di sản hàng đầu châu Á, Điểm đến
văn hóa hàng đầu châu Á, Điểm đến ẩm thực hàng đầu châu Á... Năm 2022,
Tổ chức Giải thưởng Du lịch thế giới (WTA) bình chọn Việt Nam là “Điểm
đến di sản hàng đầu thế giới”. Đây là những minh chứng sống
động cho việc phát huy giá trị của di sản trong phát triển du lịch,
khẳng định sự đóng góp tích cực, hiệu quả của các di sản văn hóa tại
Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tạo sinh kế cho
cộng đồng nơi có di sản, góp phần cân bằng và bảo vệ môi trường, thúc
đẩy sự phát triển bền vững.
Về du lịch cộng đồng: Thời
gian qua, du lịch cộng đồng ở nước ta đã thể hiện được vai trò quan
trọng trong sự phát triển của ngành du lịch, huy động được sự tham gia
của nhiều bên liên quan. Nhiều sản phẩm du lịch cộng đồng đang được khai
thác, như du lịch trải nghiệm các hoạt động văn hóa và trải nghiệm cuộc
sống của người dân tại địa phương, du lịch làng nghề, du lịch nghỉ
dưỡng tại cộng đồng... Các sản phẩm du lịch xoay quanh việc khai thác
tài nguyên, thế mạnh, điểm hấp dẫn của địa phương, trong đó các yếu tố
quan trọng, như tài nguyên văn hóa, lối sống, phong tục, tập quán, thói
quen canh tác nông nghiệp được coi là những yếu tố cơ bản tạo nên sự
khác biệt và tính hấp dẫn của sản phẩm du lịch. Du lịch cộng đồng hiện
nay được mở rộng ra với nhiều hoạt động khác nhau, như du lịch xanh, du
lịch nông nghiệp, du lịch vì sức khỏe...
Mô
hình du lịch cộng đồng đang được phát triển tại nhiều địa phương trên
cả nước, như các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Cao Bằng, Bắc Kạn,
Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hà Giang, Nam Định, Ninh Bình, Nghệ An,
Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long,
Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Kon Tum, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa... và ở các thành phố lớn, như Hà Nội, Đà Nẵng, Hải
Phòng... Đến năm 2020, trên cả nước có khoảng 300 làng, bản, buôn, thôn,
xóm có hoạt động du lịch cộng đồng. Nhiều điểm đến du lịch cộng đồng
của nước ta đã đạt được các tiêu chuẩn nhất định và giành được giải
thưởng quốc tế, như Giải thưởng du lịch cộng đồng ASEAN năm 2023 được
trao cho Hợp tác xã dịch vụ du lịch cộng đồng Quản Bạ (tỉnh Hà Giang);
Điểm bản du lịch cộng đồng Sin Suối Hồ (tỉnh Lai Châu); Cộng đồng du
lịch làng chài Tân Thành (tỉnh Quảng Nam); Khu bảo tồn làng nhà sàn dân
tộc sinh thái Thái Hải (tỉnh Thái Nguyên). Bên cạnh lợi ích kinh tế mang
lại cho cộng đồng dân cư, du lịch cộng đồng đã góp phần hiệu quả bảo
tồn, lưu giữ tài nguyên thiên nhiên và văn hóa đặc sắc của nước ta.
Về du lịch sinh thái: Du
lịch sinh thái là mô hình du lịch dựa trên khai thác các giá trị tự
nhiên và văn hóa địa phương, gắn với bảo vệ môi trường, góp phần phát
triển bền vững. Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển du lịch
sinh thái với thiên nhiên đa dạng, bờ biển dài hơn 3.200#km cùng nhiều
đảo lớn, nhỏ, hệ sinh thái động vật, thực vật phong phú, độc đáo. Du
lịch sinh thái được tập trung phát triển theo các vùng, miền. Vùng núi
và ven biển Đông Bắc có hệ sinh thái núi đá vôi, hệ sinh thái đất ngập
nước, hệ sinh thái san hô...; tiêu biểu là Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc
Sơn, Khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên (tỉnh Lạng Sơn), Vườn quốc gia Ba
Bể (tỉnh Bắc Kạn), hồ Núi Cốc (tỉnh Thái Nguyên), Vườn quốc gia Bái Tử
Long (tỉnh Quảng Ninh); Vườn quốc gia Cát Bà (thành phố Hải Phòng); hệ
sinh thái san hô ở khu vực Hạ Long và Cát Bà, phù hợp để phát triển
nhiều sản phẩm du lịch sinh thái... Vùng núi Tây Bắc có hệ sinh thái núi
cao với nhiều loài sinh vật ôn đới và vườn quốc gia Hoàng Liên với
nhiều loài động vật quý hiếm, thích hợp với loại hình du lịch tham quan
nghiên cứu các hệ sinh thái vùng núi cao, du lịch mạo hiểm. Vùng đồng
bằng sông Hồng có các vườn quốc gia, như Ba Vì, Tam Đảo, Xuân Thủy, Cúc
Phương với hoạt động du lịch sinh thái chủ yếu là tham quan nghiên cứu
các hệ sinh thái đặc thù kết hợp với du lịch văn hóa. Vùng Bắc Trung Bộ
có tính đa dạng sinh học cao với nhiều vườn quốc gia (Bến En, Pù Mát, Vũ
Quang, Phong Nha - Kẻ Bàng, Bạch Mã) là những khu rừng nguyên sinh rộng
lớn có sự đa dạng sinh học, nhiều lợi thế cho loại hình du lịch tham
quan nghiên cứu các hệ sinh thái, du lịch mạo hiểm, du lịch lặn biển...
Vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên có hệ sinh thái điển hình là hệ sinh
thái rừng khộp, hệ sinh thái đất ngập nước, hệ sinh thái vùng núi cao,
hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái cát... Đây là vùng được thế giới công
nhận có tính đa dạng sinh học cao, là nơi duy nhất ở Việt Nam và các
nước Đông Nam Á có đủ 4 loài bò xám và bò sừng xoắn, đồng thời cũng là
nơi còn có nhiều loài chim, thú, bò sát, cá, các loài thực vật thuộc
diện quý hiếm, đặc hữu ở Việt Nam và trên thế giới. Nhiều loại hình du
lịch sinh thái được khai thác ở khu vực này, bao gồm tham quan nghiên
cứu các hệ sinh thái, du lịch mạo hiểm, du lịch lặn biển... Vùng Đông
Nam Bộ có không gian chủ yếu bao gồm khu vực vườn quốc gia Cát Tiên,
vườn quốc gia Côn Đảo, khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ... với tính đa dạng
sinh học khá cao. Vùng đồng bằng sông Cửu Long có 2 hệ sinh thái điển
hình là đất ngập nước và rừng ngập mặn với hoạt động du lịch hấp dẫn là
du lịch sông nước, miệt vườn, ngày càng hấp dẫn đông đảo khách du lịch
trong và ngoài nước, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương.
Bên
cạnh kết quả đã đạt được, phát triển du lịch ở nước ta thời gian qua đã
và đang đặt ra thách thức không nhỏ đối với việc bảo vệ các di sản và
sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa, với yêu cầu bảo vệ môi trường sinh
thái và phát triển du lịch bền vững. Có thể thấy, hoạt động du lịch, một mặt, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng; mặt khác,
cũng là yếu tố làm biến dạng, làm thay đổi bản sắc văn hóa và lối sống
truyền thống của cộng đồng, đồng thời có không ít tác động tiêu cực tới
môi trường sinh thái. Ngoài ra, kết cấu xã hội tại cộng đồng cũng có thể
bị ảnh hưởng do mâu thuẫn có thể nảy sinh từ việc phân chia lợi ích từ
du lịch, khoảng cách giàu nghèo tăng lên, giá đất, giá sinh hoạt thay
đổi theo nhu cầu và khả năng chi tiêu của khách du lịch. Chất lượng
nguồn nhân lực du lịch ở nước ta còn hạn chế và chưa đồng đều. Mặc dù, ở
nhiều điểm du lịch đã phát triển, cộng đồng địa phương được tham gia
các lớp tập huấn, hướng dẫn do cơ quan quản lý du lịch địa phương hoặc
do các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tổ chức hướng dẫn; song do năng
lực nhận thức còn hạn chế, thói quen, lối sống truyền thống... nên việc
tiếp nhận cũng như thực hành các kỹ năng đón tiếp và phục vụ khách du
lịch, khả năng ngoại ngữ... ở nhiều điểm đến còn chưa đạt yêu cầu, chưa
chuyên nghiệp, làm giảm chất lượng dịch vụ của điểm đến. Ngoài ra, kết
cấu hạ tầng, giao thông đến các điểm có tiềm năng phát triển du lịch có
nơi chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch, đặc biệt
là các điểm du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái khu vực miền núi phía
Bắc. Cơ sở vật chất kỹ thuật (bãi đỗ xe, nhà vệ sinh công cộng...) chưa
được đầu tư, làm hạn chế khả năng phát triển của điểm đến. Tất cả đang
là thách thức lớn đối với sự phát triển du lịch bền vững ở nước ta.
Ninh Bình luôn coi trọng bảo tồn thiên nhiên, giữ gìn sự đa dạng sinh học các di sản, di tích và thắng cảnh, gắn với du lịch xanh (Trong ảnh: Những cánh đồng thơ mộng trải dài hai bên bờ lối vào Tam Cốc - Bích Động, Ninh Bình). (Ảnh: baoninhbinh.org.vn)
3. Sau
đại dịch COVID-19, xu hướng du lịch xanh, du lịch thân thiện môi
trường, gắn kết với bảo tồn các giá trị văn hóa ngày càng được đặt ra,
đòi hỏi cần có những giải pháp đồng bộ như sau:
Một là,
tiếp tục có cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy du lịch phát triển bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Các địa phương, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể về kinh tế - xã
hội, cần có chính sách hỗ trợ thích hợp cho hoạt động du lịch. Theo đó,
chính sách, kế hoạch khai thác giá trị di sản văn hóa và thiên nhiên
phục vụ phát triển du lịch cần được các địa phương thật sự quan tâm, ban
hành và triển khai hiệu quả trên địa bàn.
Hai là,
có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đến các điểm du
lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa nhiều tiềm năng ở
vùng biên giới, miền núi, hải đảo. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể của cả
nước, các địa phương cần tiếp tục rà soát, lập quy hoạch chi tiết từng
khu, điểm, cụm du lịch trọng điểm, trong đó chú trọng các yếu tố bền
vững. Trong quy hoạch, phải bảo đảm nguyên tắc đa dạng sinh học và bảo
vệ môi trường, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, nhất là giá trị các di
sản, bản sắc văn hóa dân tộc và những sắc thái văn hóa đa dạng của cộng
đồng dân cư các địa phương. Bảo vệ môi trường phải được các cơ quan
quản lý các cấp coi trọng và trở thành yêu cầu bắt buộc trong quy hoạch
phát triển của mỗi địa phương.
Ba là,
thúc đẩy sự gắn kết, phối hợp hiệu quả giữa các ngành, các doanh
nghiệp, người dân, các bên liên quan trong xây dựng, phát triển các sản
phẩm, dịch vụ du lịch cộng đồng, sinh thái, văn hóa. Giải quyết hài hòa
lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp để tạo niềm tin,
thu hút nguồn lực xã hội vào hoàn thiện các khu, điểm, cụm du lịch, phấn
đấu xây dựng những điểm đến du lịch mang tầm khu vực và quốc tế, từ đó
tạo sức hấp dẫn và sự lan tỏa cho các điểm đến du lịch.
Bốn là,
cơ cấu lại ngành du lịch, từ hoạt động xúc tiến, quảng bá, định vị thị
trường mục tiêu, cho tới xây dựng sản phẩm phù hợp; ưu tiên xây dựng các
gói kích cầu, hợp tác chặt chẽ giữa ngành du lịch và các bên cung ứng
dịch vụ liên quan, như hàng không, các lĩnh vực sản xuất hàng hóa, dịch
vụ phục vụ khách du lịch... Đa dạng hóa sản phẩm du lịch, khai thác sản
phẩm thuộc các loại hình du lịch có thế mạnh đặc thù của từng địa
phương; tập trung phát triển sản phẩm du lịch văn hóa - lịch sử, du lịch
ẩm thực, du lịch mua sắm, du lịch nông nghiệp sinh thái, du lịch hội
nghị - hội thảo (MICE), du lịch y tế... Tiếp tục nâng cao số lượng và
chất lượng nguồn nhân lực du lịch, nhất là đối với đội ngũ quản lý,
hướng dẫn viên, thuyết minh viên và nhân lực trực tiếp phục vụ khách du
lịch, bảo đảm chất lượng đào tạo nghề du lịch theo tiêu chuẩn nghề
ASEAN.
Năm là,
đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, nâng cao ý thức của khách du lịch và
người dân về “lối sống xanh”, bảo vệ môi trường sống, ý thức du lịch có
trách nhiệm, ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa
trong hoạt động du lịch. Bảo đảm các mục tiêu của phát triển du lịch bền
vững, bao gồm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, hiệu quả kinh tế, sự
phát triển cho địa phương, bảo tồn các giá trị văn hóa, bảo vệ môi
trường sinh thái, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm an sinh xã hội
và công bằng xã hội, hướng tới xây dựng ngành du lịch chuyên nghiệp,
bền vững hơn, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần thúc
đẩy sự phát triển bền vững của đất nước./.
TS. NGUYỄN TRÙNG KHÁNH
Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam
_________________________
(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.214, 145-146.
(3) Xem: Trung tâm Thông tin du lịch (Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam): Tốc độ tăng trưởng khách cao, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, https://www.vietnamtourism.gov.vn/post/32527, ngày 9/7/2020.
(4)
Xem: Trung tâm Thông tin du lịch (Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam): Trên
1 triệu khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 7/2023, https://vietnamtourism.gov.vn/post/51439, ngày 27/7/2023.
(5)
Xem: Trung tâm Thông tin du lịch (Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam): Phát
huy vai trò của di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững, https://vietnamtourism.gov.vn/post/49222, ngày 22/4/2023.
(Nguồn: TC Cộng sản)