Với
quan điểm nhất quán, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định văn hóa nói
chung, văn hóa dân tộc thiểu số nói riêng là một bộ phận quan trọng, là
động lực của sự phát triển bởi: “Văn hóa... là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn”(1).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về "Xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” xác định văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hóa Việt Nam là nền văn
hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về "Xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” tiếp
tục khẳng định quan điểm xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm
sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ
và khoa học. Nghị quyết cũng nhấn mạnh nhiệm vụ giữ gìn và phát huy di
sản văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang
phục, lễ hội truyền thống; chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua
thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc.
Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm phát triển: “Khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc... lấy giá trị văn
hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo
đảm sự phát triển bền vững”(2), “Khắc phục sự chênh lệch về
trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai
tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số... Quan tâm, tạo điều kiện phát triển văn hóa, văn nghệ
của các dân tộc thiểu số”(3).
Thể
chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, thời gian qua, Nhà nước đã ban
hành các chính sách nhằm phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, tập
trung vào một số lĩnh vực cơ bản sau:
Một là, chính sách bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số.
Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến công
tác giáo dục ngôn ngữ đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số(4)...
Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc bảo tồn
tiếng nói, chữ viết dân tộc thiểu số, 27/53 dân tộc thiểu số có bộ chữ
viết riêng của dân tộc mình, như Tày, Thái, Hoa, Khmer, Nùng, Mông,
Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, Xơ-đăng, Chăm, Cơ-ho, Mnông... được bảo tồn. Một
số ngôn ngữ được sử dụng trên Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình
Việt Nam, các đài phát thanh và truyền hình địa phương, và được sử dụng
để in các tác phẩm văn nghệ truyền thống, các sáng tác mới... Bên cạnh
đó, việc tổ chức dạy, học ngôn ngữ dân tộc thiểu số cũng được triển khai
ở các trường học vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên cả nước. Hiện nay,
cả nước đã có 30 tỉnh triển khai với 700 trường học tiếng dân tộc thiểu
số; phát hành 8 chương trình tiếng dân tộc (Chăm, Khmer, Gia-rai,
Ba-na, Ê-đê, Mông, Mnông, Thái) và 6 bộ sách giáo khoa tiếng dân tộc
thiểu số (Chăm, Khmer, Gia-rai, Ba-na, Ê-đê, Mông). Nhiều địa phương đã
khảo sát, thống kê, sưu tầm tiếng nói, chữ viết, thư tịch cổ của các dân
tộc; biên soạn, xuất bản sách tiếng dân tộc thiểu số.
Hai là, chính sách bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1270/QĐ-TTg, ngày 27/7/2011,“Phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt
Nam đến năm 2020”” nhằm huy động sức mạnh của toàn xã hội phát triển văn
hóa dân tộc, góp phần để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng - an ninh, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia, hướng
tới bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc
thiểu số phù hợp với tình hình thực tế...; Quyết định số 2493/QĐ-TTg, ngày 22/12/2016 “Phê duyệt Đề án Kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày,
tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc
thiểu số Việt Nam giai đoạn 2017-2020”, hướng tới mục tiêu huy động
nguồn lực của toàn xã hội cùng tham gia gìn giữ, bảo tồn và phát triển
văn hóa dân tộc; tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và ý thức bảo vệ,
phát huy giá trị di sản văn hóa của toàn xã hội, các chủ thể văn hóa và
tổ chức, cá nhân có liên quan. Quyết định số 936/QĐ-TTg, ngày 30/6/2017
“Phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016-2020”, trong đó có mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn
hóa đặc sắc của dân tộc; phát triển các công trình văn hóa hiện đại, có ý
nghĩa biểu tượng quốc gia, ý nghĩa chính trị, lịch sử, truyền thống đặc
sắc hướng tới mục tiêu chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...
Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4686/QĐ-BVHTTDL,
ngày 31/12/2013 “Phê duyệt Đề án tổ chức định kỳ “Ngày hội, giao lưu
văn hóa, thể thao và du lịch vùng đồng bào các dân tộc thiểu số” theo
khu vực và toàn quốc giai đoạn 201 -2020”; Quyết định số
3965/QĐ-BVHTTDL, ngày 16/11/2015 về việc "Phê duyệt Dự án “Chương trình
hoạt động, lễ hội và biểu diễn văn hóa nghệ thuật các dân tộc cấp tỉnh,
vùng và quốc gia giai đoạn 2015 - 2020” (thuộc Đề án “Bảo tồn, phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” theo Quyết
định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính
phủ)”... Qua đó, nhiều hoạt động giao lưu văn hóa được diễn ra trên phạm
vi cả nước, từng vùng, từng địa phương, từng dân tộc, như Giao lưu văn
hóa các dân tộc tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam hằng
năm; ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc, miền Trung và
miền Đông Nam Bộ, ngày hội văn hóa dân tộc Mông, Chăm, Khmer, Mường,
Dao, Hoa, Thái...; liên hoan nghệ thuật hát then, đàn tính các dân tộc
Tày, Nùng, Thái.... Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm kê, sưu tầm, bảo
quản, trưng bày, tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá di sản văn hóa
truyền thống điển hình của các dân tộc thiểu số Việt Nam được nâng cao.
Các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh vùng đồng bào dân tộc
thiểu số cũng được lập hồ sơ khoa học, xếp hạng cấp quốc gia và quốc
gia đặc biệt. Việt Nam đã có nhiều di sản được UNESCO công nhận là di
sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, như Không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên (năm 2008); Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở
Việt Nam (năm 2019); Nghệ thuật Xòe Thái (năm 2022)...
Ngoài
ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số
209/QĐ-BVHTTDL, ngày 18/1/2019 về việc "Phê duyệt Đề án “Bảo tồn trang
phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay”" với mục tiêu bảo tồn và phát huy trang phục truyền thống của các
dân tộc thiểu số, khơi dậy lòng tự hào đối với văn hóa và trang phục
truyền thống các dân tộc, hình thành ý thức, động lực để chính các chủ
thể văn hóa, các cấp chính quyền địa phương có ý thức bảo tồn, phát huy
và sử dụng trang phục truyền thống phổ biến hơn trong cuộc sống.
Cùng
với việc ban hành các văn bản trên, xác định những người có uy tín, già
làng, trưởng bản, các nghệ nhân có một vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc bảo tồn, trao truyền, phát huy các giá trị văn hóa đặc trưng,
tiêu biểu của các dân tộc thiểu số, hằng năm, Đảng và Nhà nước tổ chức
gặp mặt già làng, trưởng bản, những người có uy tín là người dân tộc
thiểu số, trao tặng danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú cho
các nghệ nhân đã có nhiều cống hiến xuất sắc trong gìn giữ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể của
dân tộc, như nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín
ngưỡng; tri thức dân gian; ngữ văn dân gian; tiếng nói, chữ viết; lễ hội
truyền thống...
Ba là, chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch.
Thời
gian qua, nhiều địa phương trên cả nước đã khai thác các giá trị văn
hóa địa phương, tạo nên những sản phẩm du lịch khá hấp dẫn. Một số mô
hình phát triển du lịch đã hình thành và hoạt động khá hiệu quả, như du
lịch cộng đồng người Thái ở Bản Mển (xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên, tỉnh
Điện Biên) và Bản Áng (xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La); du
lịch cộng đồng người Dao ở bản Nậm Đăm (xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, tỉnh
Hà Giang), du lịch cộng đồng của người Lự ở bản Thẳm (huyện Tam Đường,
tỉnh Lai Châu)... Vấn đề liên kết vùng, hợp tác giữa các đơn vị, tổ chức
và việc ứng dụng khoa học - công nghệ, truyền thông trong hoạt động du
lịch ngày càng được chú trọng trong các hoạt động bảo tồn, phát huy các
giá trị văn hóa, trong đó phải kể đến tuyến du lịch “Qua những miền di
sản Việt Bắc”; “Con đường di sản miền Trung”, “Con đường xanh Tây
Nguyên”; “Không gian cồng chiêng Tây Nguyên”; “Du lịch cội nguồn”, “Cội
nguồn Tây Bắc”, “Sắc màu vùng cao”; “Du lịch vòng cung Tây Bắc”... Việc
triển khai chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch khá hiệu quả, góp phần
vừa phục hồi, bảo tồn, phát huy nhiều giá trị văn hóa đặc trưng, tiêu
biểu của các vùng, miền trên cả nước, vừa tạo thêm việc làm, tăng thu
nhập; qua đó, thúc đẩy quá trình xóa đói, giảm nghèo tại vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi.
Bốn là, chính sách truyền thông đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Một
số chính sách liên quan đến công tác truyền thông đã được ban hành, góp
phần tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung và chính
sách bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc thiểu số nói riêng đến với đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi, như các quyết định của Thủ tướng Chính
phủ(5). Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam,
các đài phát thanh, truyền hình địa phương, các cơ quan báo chí và
truyền thông trên cả nước cũng tích cực phủ sóng và nâng cao hiệu quả
hoạt động thông tin, tuyên truyền về công tác dân tộc trên khắp mọi miền
Tổ quốc.
Năm
là, chính sách về công tác thông tin, thư viện nhằm lưu trữ các văn bản
cổ, về hoạt động nghe nhìn, sáng tác văn học, nghệ thuật về chủ đề dân
tộc thiểu số.
Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1558/QĐ-TTg, ngày 5/8/2016,“Phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số Việt Nam””. Đề án đã khảo sát, điều tra, nghiên
cứu, sưu tầm, xây dựng hệ thống tư liệu, sáng tạo, xuất bản, phát hành,
quảng bá các công trình văn học, nghệ thuật về các dân tộc thiểu số Việt
Nam dưới dạng sách in, sách điện tử (Ebook), sách 3D, các phim tài
liệu, phim chuyên đề và hệ thống thư viện số.
Bên
cạnh những kết quả đã đạt được, hệ thống chính sách văn hóa đối với các
dân tộc thiểu số còn ít và chưa đồng bộ, chưa phù hợp với đặc thù vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tốc độ phát triển kinh tế - xã
hội. Việc tổ chức thực hiện chính sách còn chậm, chưa thực sự đi vào
cuộc sống... Nguồn lực đầu tư hỗ trợ bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống các dân tộc thiểu số còn hạn chế, sử dụng thiếu hiệu
quả. Nhận thức một bộ phận không nhỏ các ngành, các cấp về văn hóa dân
tộc thiểu số còn hạn chế. Chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng nên chưa
phát huy được hiệu quả tài năng, tâm huyết của đội ngũ trí thức, nghệ
nhân dân gian dân tộc thiểu số. Chính sách bảo tồn, khai thác và phát
huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc theo các lĩnh vực cụ thể, chính
sách tái tạo môi trường, khôi phục cảnh quan, không gian sinh tồn của
đồng bào dân tộc thiểu số chưa được quan tâm định hướng và thể hiện một
cách rõ ràng.
Thời
gian tới, để tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa các dân tộc thiểu số, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp
sau:
Một là, nâng
cao nhận thức trong công tác hoạch định, xây dựng và thực hiện chính
sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số.
Chính
sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số phải gắn
với chính sách phát triển quốc gia - dân tộc, chính sách phát triển của
vùng, chú ý đến tính toàn diện, tính đặc thù. Quá trình hoạch định, xây
dựng và thực hiện chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, từ tiềm năng,
lợi thế, tính đặc thù của từng vùng, từng địa phương, từng tộc người và
phải đặt trong tổng thể sự phát triển quốc gia, dân tộc. Cần có thái độ
tôn trọng đối với di sản văn hóa các dân tộc thiểu
số. Tăng cường các hoạt động bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống tiêu biểu, đặc trưng và phù hợp với điều kiện mới; bảo đảm
hài hòa giữa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, bảo tồn và phát
triển, nhất là phát triển bền vững về văn hóa, đặt trong mối quan hệ với
kinh tế - xã hội. Cụ thể hóa các nội dung chính sách bảo tồn khẩn cấp
văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người (có số dân dưới 10.000 người),
các dân tộc thiểu số tại các khu vực tái định cư dự án thủy điện liên
thông, tại vùng biên giới, kết nối toàn diện với các chương trình, dự án
có liên quan.
Hai là, đổi mới công tác tuyên truyền.
Bối
cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế cùng cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, công tác quản lý nhà nước về văn hóa phải
có sự thay đổi trong tư duy và hành động. Bên cạnh việc tiếp tục nâng
cao nhận thức về vai trò của văn hóa các dân tộc thiểu số, cần tiếp tục
đầu tư xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý văn hóa. Đẩy mạnh
hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức về công tác bảo tồn văn hóa,
về công tác quản lý văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đối
với thế hệ trẻ, củng cố niềm tự hào, ý thức và trách nhiệm của mỗi người
dân trong gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần xác định công tác tuyên truyền nâng
cao nhận thức về hoạt động bảo tồn văn hóa và quản lý văn hóa vùng đồng
bào dân tộc thiểu số là một nội dung quan trọng trong công tác lãnh đạo
của Đảng đối với cơ sở. Nhiệm vụ tuyên truyền có thể được lồng ghép với
việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu chọn lọc các
giá trị văn hóa mới, bài trừ những tập tục cổ hủ; chống âm mưu “diễn
biến hòa bình” nhằm gây chia rẽ dân tộc, chống phá khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Ba
là, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc và quản lý
văn hóa dân tộc thiểu số, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước
về văn hóa các dân tộc thiểu số.
Chú
trọng công tác tuyển dụng công chức, viên chức được đào tạo đúng chuyên
môn, nghiệp vụ; thường xuyên bồi dưỡng, cập nhật kiến thức trong tình
hình mới đối với đội ngũ làm công tác dân tộc và quản lý văn hóa dân tộc
thiểu số. Có cơ chế phát huy vai trò của các nghệ nhân, già làng,
trưởng bản trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở
các vùng đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích cộng đồng tham gia bảo
tồn những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, ngăn chặn nguy cơ làm
mai một, sai lệch hoặc thất truyền. Tiếp thu thành tựu của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư trong quản lý văn hóa, như số hóa những dữ
liệu cốt lõi gắn với bản sắc văn hóa đặc trưng của các dân tộc thiểu số;
từ đó, có thể lựa chọn đăng tải trên các phương tiện thông tin và
truyền thông để đông đảo người dân có điều kiện tiếp cận, tương tác, tìm
hiểu thuận lợi hơn.
Gắn
kết công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa và hoạt động du lịch với
sự tham gia của các bên liên quan, trong đó vai trò nòng cốt thuộc về
các chủ thể văn hóa... để vừa tạo ra sinh kế, góp phần xóa đói, giảm
nghèo, vừa tạo ý thức cho chính cộng đồng trong việc lựa chọn, phát huy,
trao truyền và thực hành các giá trị văn hóa đặc trưng, tiêu biểu trong
đời sống. Đó cũng là cơ sở để văn hóa các dân tộc thiểu số phát triển
bền vững. Bên cạnh đó, cần gắn kết giữa xây dựng và phát triển văn hóa,
văn nghệ theo hướng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ; chú trọng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gắn với sản
phẩm và dịch vụ văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số.
Trình diễn áo dài và thời trang thổ cẩm Tây Nguyên tại thác Pa Sỹ, thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông (tỉnh Kon Tum). (Nguồn: nhandan.vn)
Bốn
là, nhân rộng các mô hình bảo tồn văn hóa; xây dựng các mô hình mới về
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống phù hợp với thực
tiễn của các địa phương.
Xác
định làng, bản, buôn, sóc, ấp... là địa bàn cơ sở để bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống và xây dựng đời sống văn hóa mới, trong đó
chú trọng phát huy vai trò người dân - chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn
hóa - những người có khả năng nuôi dưỡng và phát huy tốt nhất các giá
trị văn hóa truyền thống với nòng cốt là các già làng, các nghệ nhân và
trí thức là người dân tộc thiểu số. Thực hiện các mô hình bảo tồn văn
hóa có hiệu quả, phổ biến và nhân rộng các mô hình bảo tồn văn hóa được
triển khai tốt, đồng thời đổi mới, bổ sung các mô hình bảo tồn các giá
trị văn hóa phù hợp với thực tiễn của địa phương. Tiếp tục triển khai
thực hiện ngày hội văn hóa các dân tộc thiểu số theo vùng, ngày hội đại
đoàn kết dân tộc tại các địa phương; xây dựng mô hình bảo tàng văn hóa
tư nhân; đưa mô hình truyền dạy văn hóa dân tộc vào các trường học; gắn
tổ chức truyền dạy, phát triển nghề thủ công truyền thống, điêu khắc dân
gian với các cơ quan, tổ chức phát triển du lịch, các trung tâm xúc
tiến việc làm và tiêu thụ sản phẩm.
Năm là, tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm ổn định đời sống cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Cùng
với phát triển kinh tế, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương cần
quan tâm bố trí đủ nguồn lực cho các chương trình, dự án, đề án, nghiên
cứu khoa học về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc thiểu số và nâng cao hiệu
quả công tác quản lý văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số; trong đó
có chính sách hỗ trợ, phục dựng các lễ hội truyền thống, các sản phẩm
văn hóa truyền thống. Tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ
nhân, nghệ sĩ có công tạo dựng các công trình, sản phẩm văn hóa; phổ
biến, truyền dạy nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp đối với
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hỗ trợ các mô hình văn hóa đặc sắc, mô
hình điểm ở các bản, làng; hỗ trợ việc bảo tồn tiếng nói và chữ viết. Để
tăng cường nguồn lực cho phát triển văn hóa, chú trọng đến vấn đề xã
hội hóa các hoạt động văn hóa với sự tham gia và giám sát chặt chẽ của
các cơ quan quản lý nhà nước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, cần chú ý đến môi trường, không gian phù hợp để đồng bào các dân
tộc thiểu số hoạt động, phát triển và sáng tạo văn hóa. Phát huy vai trò
chủ động, trách nhiệm và tính phản biện trong việc thực hiện chính sách
văn hóa. Tăng cường sự tham gia, tư vấn của các nhà nghiên cứu, các
chuyên gia trong lĩnh vực văn hóa để kịp thời kiến nghị, chỉnh sửa những
bất cập của một số chính sách cho phù hợp với thực tiễn./.
_____________________
(1)
Nguyễn Phú Trọng: Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị
đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 979 (tháng 12/2021), tr.3.
(2) (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr. 215-216, 144-145.
(4)
Nghị định số 82/2010/NĐ-CP, ngày 15/7/2010 của Chính phủ “Quy định
việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở
giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên”; Quyết định số
1008/QĐ-TTg, ngày 2/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Đề án
“Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân
tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025””.
(5)
Quyết định số 59/QĐ-TTg, ngày 16/1/2017 về việc "Cấp một số ấn phẩm
báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó
khăn”; Quyết định số 1860/QĐ-TTg, ngày 23/11/2017 “Phê duyệt đề án “Thí
điểm cấp ra-đi-ô cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt
khó khăn, biên giới””; Quyết định số 45/QĐ-TTg, ngày 9/1/2019 về việc "Cấp một số ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi,
vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2019-2021”.
PGS. TS. NGUYỄN THỊ SONG HÀ
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
(Nguồn: TC Cộng sản)