(TG)-Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã đề cập đến nhiều vấn đề rộng lớn, toàn diện, trong nhiều lĩnh vực, ngoài sự kế thừa quan điểm của các Đại hội trước, còn có những bổ sung, phát triển quan trọng, trong đó có tư duy lý luận mới về khoa học, công nghệ.
I. Cơ sở lý luận, thực tiễn hình thành tư duy mới của Đảng về khoa học, công nghệ
Thứ nhất, cuộc cách mạng khoa học, công nghệ diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi mọi quốc gia phải đổi mới để không bị tụt hậu
Cuộc cách mạng khoa học, công nghệ trong thời kỳ toàn cầu hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại là bước nhảy vọt về chất trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức tổ chức, quản lý, phân công lao động xã hội và tăng năng suất lao động dựa trên những tiến bộ của hệ thống tri thức khoa học, công nghệ tiên tiến.
Nhờ những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v... xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cùng với việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cách mạng khoa học, công nghệ góp phần giải quyết tốt các mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, làm tăng hiệu quả việc tổ chức, quản lý phân công lao động xã hội và phân phối sản phẩm, hoạch định kế hoạch đầu tư, phát triển cơ cấu ngành nghề… một cách hợp lý. Từ đó đặt ra yêu cầu tất yếu phải đổi mới khoa học, công nghệ của mọi quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, phát triển khoa học, công nghệ là tất yếu để nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, khoa học, công nghệ có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khoa học, công nghệ vừa giữ vai trò then chốt, vừa là nền tảng, động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Khoa học, công nghệ góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng và an ninh; làm chuyển nền kinh tế lạc hậu, chất lượng hiệu quả thấp dựa vào sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp là chính sang nền kinh tế có năng suất, chất lượng hiệu quả cao theo phương pháp sản xuất công nghiệp. Chính vì vậy, phát triển khoa học, công nghệ là tất yếu để nước ta thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, khoa học, công nghệ ở nước ta còn chưa tương xứng, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới
Trong thời gian qua, mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung, khoa học, công nghệ nước ta còn nhiều mặt yếu kém, chưa khắc phục được tình trạng ngày càng tụt hậu so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học, công nghệ chưa được chú trọng; đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao.
Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ đã có sự tăng nhanh về số lượng, nhưng chất lượng còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Còn có sự bất hợp lý về cơ cấu ngành nghề và phân bố đội ngũ, nên nhiều lĩnh vực phát triển nhanh vẫn còn rất thiếu nhân lực khoa học, công nghệ; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ chủ chốt đang bị già hoá; kiến thức mới ít có điều kiện cập nhật; sự hẫng hụt về cán bộ trong nhiều lĩnh vực là nghiêm trọng, nhất là trong lĩnh vực khoa học cơ bản. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học, công nghệ chậm được đổi mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý. Thị trường khoa học, công nghệ phát triển chậm, chưa gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp... Những hạn chế trên đã ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước, khiến cho khoa học, công nghệ chưa thực sự là nền tảng và động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Trước những cơ hội và thách thức trên đây, nếu không có những quyết sách đột phá về phát triển khoa học, công nghệ, những biện pháp mạnh mẽ tăng cường năng lực khoa học, công nghệ quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu về kinh tế và khoa học, công nghệ ngày càng xa so với các quốc gia trong khu vực và thế giới là khó tránh khỏi. Những nguyên nhân này tất yếu đòi hỏi Đảng phải có tư duy mới, nhận định mới về phát triển khoa học, công nghệ.
II. Những điểm mới về khoa học, công nghệ được trình bày trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Đảng về khoa học, công nghệ trong các Đại hội trước, Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng xác định: “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.” và “Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta”. So với các văn kiện tại các Đại hội trước, tại Văn kiện trình Đại hội XII lần này, khoa học, công nghệ đã được Đảng ta nhận thức đầy đủ hơn và đã có sự phát triển mới.
Về bố cục, tại Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, lần đầu tiên khoa học, công nghệ được đưa vào một mục riêng (mục VI- Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ) , không gộp vào với các vấn đề khác như giáo dục đào tạo, văn hóa, môi trường như trong các Văn kiện Đại hội trước. Tại Văn kiện trình Đại hội IX, khoa học, công nghệ được trình bày ở mục V- Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Văn kiện trình Đại hội X được trình bày ở mục V- Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực. Văn kiện trình Đại hội XI được trình bày ở mục V- Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức; bảo vệ môi trường. Tại Đại hội XII lần này, việc trình bày thành một mục riêng đã cho thấy tầm quan trọng của khoa học, công nghệ và nhận thức mới của Đảng ta về phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Cũng về bố cục trình bày, trong tiêu đề mục cũng như trong phần nội dung, Đảng ta thường xuyên sử dụng cụm từ “khoa học, công nghệ” thay cho “khoa học và công nghệ” như trong các văn kiện Đại hội trước. Thay từ “và” bằng dấu phẩy trong cụm từ khoa học, công nghệ không chỉ đơn thuần là cách diễn đạt mà nó cho thấy tư duy của Đảng coi khoa học và công nghệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau và đôi khi rất khó để tách bạch giữa “khoa học” và “công nghệ”.
Về nội dung, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chứa đựng những nhận thức mới về phát triển khoa học, công nghệ:
Thứ nhất, trong Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”. Trong các Văn kiện trước, Đảng ta đã chỉ ra: Cùng với giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Tuy nhiên, trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã khẳng định: “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu” điều đó có nghĩa là khoa học và công nghệ thực sự có tầm quan trọng đặc biệt.
Theo Từ điển tiếng Việt, “thực sự (thật sự) có nghĩa là hoàn toàn đúng như thế” . Tại các kỳ Đại hội trước, Đảng ta đã khẳng định khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, tuy nhiên, hoạt động khoa học, công nghệ nước ta thời gian qua vẫn chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học, công nghệ chưa được chú trọng; đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học, công nghệ còn nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học, công nghệ chậm được đổi mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý. Thị trường khoa học, công nghệ phát triển chậm, chưa gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp.
Tại Đại hội lần này, khi thêm vào hai chữ “thực sự” trước cụm từ “là quốc sách hàng đầu”, Đảng ta muốn nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển khoa học, công nghệ, đặt ra yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ của đất nước lên một tầm cao mới, khắc phục những yếu kém trong thời gian qua, coi đây là công việc trọng yếu và thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. “Khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu” cũng có nghĩa là mọi chủ trương, chính sách phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ quốc đều phải dựa vào khoa học, công nghệ và thực hiện bằng khoa học, công nghệ. Chỉ có phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, coi “khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu” chúng ta mới phát triển được kinh tế - xã hội, giữ vững được độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Cũng cần phải khẳng định rằng, khi nói khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, cần coi trọng chữ “quốc sách”. Theo Từ điển tiếng Việt: “Quốc sách là chính sách lớn quan trọng hàng đầu của Nhà nước” . Khẳng định “khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu” nghĩa là khẳng định khoa học, công nghệ có liên quan mật thiết đến mọi người, đem lại lợi ích cho mọi người, mọi tầng lớp nhân dân, các cấp, các ngành và mọi người, mọi tầng lớp nhân dân, các cấp, các ngành phải làm hết sức mình vì sự phát triển của khoa học, công nghệ. Khẳng định “khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu” cũng còn có nghĩa là khoa học, công nghệ phải đứng hàng thứ nhất và đi trước một bước trong mọi chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước. Đây là nhận thức mới của Đảng ta về phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Thứ hai, trong Văn hiện Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “khoa học và công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.”
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã chỉ ra các nhân tố tạo thành động lực: hài hòa lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy nhân tố con người, vai trò của khoa học - công nghệ... tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập. Như vậy, có nhiều nhân tố tạo thành động lực trong quá trình đổi mới và hội nhập, tuy nhiên, tại Đại hội XII, Đảng ta đã chỉ ra và khẳng định khoa học, công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại và “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới ... lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”.
Đây là sự đánh giá đúng đắn, khách quan, khoa học vai trò của khoa học, công nghệ trên quan điểm, lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta. Bởi vì, chỉ có đánh giá đúng đắn vai trò của khoa học, công nghệ mới có chính sách đầu tư đúng đắn và phát huy tác dụng của nó một cách hiệu quả. Khi coi khoa học, công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại tức là Đảng ta đã khẳng định vai trò to lớn của khoa học, công nghệ trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức tổ chức, quản lý, phân công lao động xã hội và tăng năng suất lao động. Đồng thời, đó là sự phát triển của các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, làm cho nền sản xuất tiến từ thủ công lên cơ khí hoá, tự động hoá, tin học hoá… Từ đó đặt ra nhiệm vụ cấp thiết đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là phải làm cho khoa học, công nghệ thật sự trở thành động lực mạnh mẽ phát triển kinh tế xã hội trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, trong Văn hiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: “Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta.”
Trong thời gian qua, khoa học và công nghệ nói chung, lĩnh vực công nghệ nói riêng đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm chủ, thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhờ đó, trình độ công nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hóa có sức cạnh tranh cao hơn. Tuy nhiên, trong bối cảnh môi trường quốc tế cạnh tranh ngày càng gay gắt, công nghệ được xem là công cụ chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững, là bí quyết để mỗi quốc gia phát triển và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Thực tế này đang đặt ra yêu cầu bức thiết về đổi mới, phát triển công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tạo được ưu thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nhận thức được yêu cầu này, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương và chính sách lớn nhằm phát triển công nghệ như Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhiệm vụ đến năm 2000, Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010, Luật Khoa học và công nghệ, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 và Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đây là những chính sách, chủ trương lớn về lĩnh vực công nghệ, tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển rất nhanh của lĩnh vực công nghệ trên thế giới, tại Đại hội XII lần này Đảng đã khẳng định phải “Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta.” Đây là một định hướng phát triển lớn và mới về phát triển công nghệ của đất nước trong thời gian tới. Phải khẳng định rằng đây là lần đầu tiên Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng chiến lược phát triển công nghệ quốc gia. Khi chiến lược này được xây dựng và triển khai trong thực tiễn sẽ tạo ra động lực lớn kích thích thích quá trình đổi mới công nghệ hiện vẫn còn đang rất chậm dổi mới; từ chiến lược này sẽ định hướng cho các chương trình trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hóa, công nghệ cơ khí - chế tạo máy... và chắc chắn sẽ góp phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Cũng cần thấy rằng, tại văn kiện XII của Đảng, lần đầu tiên Đảng đã chỉ ra định hướng “chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta.” Đây là tư duy mới và là sự “dũng cảm” nhìn thẳng vào sự thật của Đảng bời vì trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, thời gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang thuộc về các quốc gia và các doanh nghiệp biết lợi dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực hùng mạnh về tài chính và khoa học và công nghệ, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đang nắm giữ và chi phối phần lớn thị trường công nghệ tiên tiến. Nếu theo tư duy cũ chỉ biết dựa vào năng lực nội sinh của đội ngũ cán bộ khoa học trong nước thì chắc chắn chúng ta sẽ ngày càng tụt hậu xa hơn về công nghệ so với các nước trong khu vực và thế giới. Chính vì thế, tư duy mới của Đảng là chúng ta phải có “chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta”. Đây là cách làm nhanh nhất, ít tốn kém nhất và hiệu quả nhất đối với nước ta hiện nay bởi vì phần lớn các hãng công nghệ lớn trên thế giới đã, đang và sẽ có cơ sở sản xuất ở Việt Nam như: Intel, Microsoft, Samsung, Panasonic, Canon... và họ rất muốn các doanh nghiệp nước ta cùng hợp tác kinh doanh, sản xuất. Khi hợp tác kinh doanh, sản xuất cùng các doanh nghiệp FDI này chúng ta sẽ được họ chuyển giao công nghệ theo hướng cả hai bên cùng có lợi, và như vậy sẽ tiết kiệm được rất nhiều công sức, tiền bạc để nghiên cứu cơ bản và ứng dụng về công nghệ.
III. Quán triệt quan điểm Đại hội XII của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn tới
Thứ nhất, cần đổi mới tư duy, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với phát triển khoa học, công nghệ
Để quan điểm của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ đi vào thực tiễn cuộc sống, trước tiên cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cần gắn các mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng cấp; kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ phải là một nội dung của quy hoạch, kế hoạch phát triển mỗi ngành và địa phương. Để các định hướng phát triển khoa học, công nghệ được thực hiện có hiệu quả, các cấp uỷ đảng, chính quyền và mỗi người dân phải quán triệt quan điểm Đại hội XII của Đảng, đặc biệt là quan tâm phát triển khoa học, công nghệ, tạo động lực, nguồn lực và môi trường thuận lợi nhất cho khoa học, công nghệ phát triển.
Thứ hai, đổi mới cơ chế quản lý khoa học, công nghệ
Để đạt được mục tiêu phát triển khoa học, công nghệ theo quan điểm Đại hội XII của Đảng cần phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học, công nghệ, tạo bước chuyển biến căn bản trong quản lý khoa học, công nghệ theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc thù của hoạt động khoa học, công nghệ, với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm nâng cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ. Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ cần phải được tổ chức từ trung ương đến địa phương để đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương; tách biệt về quản lý giữa khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong hệ thống khoa học, công nghệ để có cơ chế, quản lý phù hợp với mỗi khu vực; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân hoạt động khoa học, công nghệ.
Thực hiện có hiệu quả Luật Khoa học và Công nghệ, đề án đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ của Chính phủ, các chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ bám sát nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Có cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ, thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai. Hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ cần được mở rộng từ nghiên cứu - phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học, công nghệ.
Thứ ba, đổi mới và phát triển thị trường khoa học, công nghệ
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ, thực hiện cơ chế thị trường và có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh.”
Trong thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới cơ chế và chính sách kinh tế - xã hội nhằm tạo nhu cầu ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất và đời sống. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, ban hành các chính sách về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, về giải thể và phá sản doanh nghiệp, hạn chế khoanh nợ, dãn nợ. Phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán, hoàn thiện và mở rộng các công cụ của thị trường tài chính, như thuê mua tài chính, công ty tài chính, v.v...Tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động của thị trường khoa học, công nghệ. Phát triển các tổ chức trung gian, môi giới thị trường khoa học, công nghệ.
Thứ tư, phát triển và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ
Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ (đội ngũ này bao gồm các cán bộ khoa học và công nghệ trong các tổ chức nghiên cứu - phát triển, các trường đại học, các cán bộ tham gia hoạt động khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp).
Cần quan tâm đổi mới chính sách đào tạo cán bộ khoa học, công nghệ, đặc biệt là đào tạo các chuyên gia đầu ngành về khoa học, công nghệ. Các ngành, các cấp cần quan tâm đầu tư, tạo những điều kiện thuận lợi nhằm phát huy cao nhất tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực khoa học, công nghệ nhằm giải phóng tiềm năng, phát huy tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ. Xây dựng các chính sách tạo động lực vật chất và tinh thần mạnh mẽ cho các cá nhân hoạt động khoa học, công nghệ, trọng dụng và tôn vinh nhân tài khoa học, công nghệ.
Thứ năm, xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, đẩy mạnh hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ
Quán triệt quan điểm của Đảng về xây dựng chiến lược phát triển công nghệ, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta. Đa dạng hoá đối tác và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ, lựa chọn đối tác chiến lược, gắn kết giữa hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ với hợp tác quốc tế về kinh tế. Tận dụng tối đa các kênh chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước ngoài, đặc biệt là kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chứa đựng nhiều quan điểm mới rất phong phú, toàn diện và sâu sắc, trong đó có nội dung phát triển khoa học, công nghệ, làm cơ sở cho quá trình hoạch định chủ trương, đường lối lãnh đạo sự nghiệp đổi mới giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo. Vì vậy, nghiên cứu, vận dụng Nghị quyết cho sát hợp với chức năng, nhiệm vụ, điều kiện cụ thể của từng tổ chức trong hệ thống chính trị là nhiệm vụ chính trị chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nắm bắt và tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, chúng ta tin tưởng rằng, Việt Nam có thể đi tắt, đón đầu, phát triển khoa học, công nghệ hiện đại để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước, thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
Trần Quốc Tuấn
Viện Khoa học xã hội nhân văn Quân sự
__________________
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 119 - 120.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 121.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 118.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 119.
Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 1549
Đại từ điển tiếng Việt, Sđd, tr. 1379
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 121.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 110.