Thứ Hai, 7/10/2024
Lý Luận
Thứ Hai, 25/9/2023 9:11'(GMT+7)

Phát triển nguồn nhân lực ở Kiên Giang

Kiên Giang là tỉnh ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên lớn nhất và dân số đứng thứ 2/13 tỉnh, thành trong khu vực, có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, 145 đơn vị hành chính cấp xã.

Nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang là tổng thể số lượng, cơ cấu, chất lượng con người (trí lực, tâm lực, thể lực) đã, đang và sẽ tạo ra năng lực, sức mạnh đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Kiên Giang.

Một là, chủ thể phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang.

Để phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang, đòi hỏi phải có sự tham gia của các chủ thể, trực tiếp là Đảng bộ, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang; các sở, ban, ngành; các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Kiên Giang; các trường đại học, cao đẳng và cơ sở giáo dục nghề nghiệp; các doanh nghiệp trong tỉnh Kiên Giang. Đây là những chủ thể tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quá trình phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang. Bản thân người lao động vừa là đối tượng chịu sự tác động thông qua việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng, vừa là chủ thể trực tiếp của chính quá trình phát triển nguồn nhân lực. Mỗi chủ thể có vị trí, vai trò khác nhau và sự đồng thuận, hợp lực của các chủ thể ấy tạo nên sức mạnh tổng hợp trong phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang.

Hai là, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang.

Xây dựng nguồn nhân lực tỉnh Kiên Giang có quy mô, cơ cấu, chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế; nguồn nhân lực qua đào tạo đạt mức khá trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và đạt mức bình quân chung của cả nước (dự tính nguồn nhân lực cả nước qua đào tạo là 67%, khu vực 65% vào năm 2020). Đào tạo nhân lực có năng lực thực hành tương ứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, sức khỏe, trách nhiệm nghề nghiệp, khả năng sáng tạo, góp phần tăng năng suất lao động. Quản lý tốt cung/cầu lao động, tạo môi trường, cơ hội việc làm, thăng tiến bình đẳng, thực hiện các chính sách thu hút, giữ chân nguồn nhân lực có trình độ cao làm việc ở các ngành nghề khó thu hút, ngành là thế mạnh của tỉnh.

Ba là, đối tượng và phương thức phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang.

Đối tượng phát triển nguồn nhân lực là toàn thể cán bộ, nhân viên và người lao động làm việc trong các ngành, nghề, lĩnh vực ở tỉnh Kiên Giang như: Nguồn nhân lực trong các đơn vị sự nghiệp (giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ, văn hóa - thể thao), nguồn nhân lực quản lý doanh nghiệp, nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất trong xã hội (ngành công nghiệp - xây dựng, dịch vụ - du lịch, nông thôn).

Phương thức phát triển nguồn nhân lực là phát triển tập trung và phát triển theo từng vùng, địa bàn cụ thể: Triển khai thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực; tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị; đổi mới chính sách thu hút, đãi ngộ nhân tài; khuyến khích xã hội hóa trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực; kết hợp đào tạo với bồi dưỡng; kết hợp tổ chức đào tạo, bồi dưỡng với việc người lao động tự đào tạo, bồi dưỡng; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, tạo môi trường làm việc tốt để giữ chân nhân tài; làm tốt công tác giáo dục thể chất và chăm sóc sức khỏe cho người lao động; tăng cường liên kết trong và ngoài tỉnh, khu vực và hợp tác nước ngoài.

Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang được phản ánh qua những nội dung và tiêu chí cơ bản sau:

Một là, phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang đủ về số lượng.

Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang về số lượng được xây dựng trên cơ sở khoa học nhằm bảo đảm nguồn nhân lực đáp ứng sát với nhu cầu phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của tỉnh Kiên Giang ở cả hiện tại, tương lai. Hướng đến triển khai đồng bộ các chính sách đào tạo và thu hút nguồn nhân lực, thực hiện bước đột phá trong phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Tổ chức tuyên truyền và thông tin rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng về nhu cầu, ngành nghề mà tỉnh, địa phương cần thu hút; những ngành nghề cần đào tạo; định hướng chung về cung/cầu lao động cho tỉnh.

Tiêu chí đánh giá sự phát triển về số lượng nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang được biểu hiện qua sự tăng lên về số lượng, tốc độ tăng trưởng qua các năm, các giai đoạn của nguồn nhân lực. Đó là quá trình đào tạo, tự đào tạo, quá trình thu hút, tuyển dụng những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật và tay nghề cao nhằm đáp ứng yêu cầu về số lượng nguồn nhân lực bảo đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Kiên Giang; sự gia tăng tỷ lệ lao động trình độ đại học trên tổng số lực lượng lao động; sự gia tăng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân; sự gia tăng số lượng sinh viên, sinh viên mới tuyển, sinh viên tốt nghiệp hằng năm.

Hai là, phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang có chất lượng cao.

Với quan điểm: “Phát triển nguồn nhân lực phải bao gồm cả về trí lực, thể lực; trong quá trình phát triển gắn kết chặt chẽ giữa các khâu từ nâng cao chất lượng dân số, đảm bảo sức khỏe, giáo dục - đào tạo, giáo dục nghề nghiệp đến tạo việc làm, quản lý và sử dụng nhân lực. Phát triển nhân lực phải gắn kết với nhu cầu vị trí việc làm và nhu cầu của xã hội”[1], cụ thể:

Phát triển về trí lực của nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang được biểu hiện qua nội dung nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, kỹ năng nghề, phát triển năng lực đổi mới và tính năng động, sáng tạo, khả năng thích ứng, nâng cao năng lực về ngoại ngữ và tin học. Sự phát triển trí lực của con người không chỉ phụ thuộc vào tư chất của từng cá nhân mà còn phụ thuộc rất lớn vào môi trường giáo dục, đào tạo, môi trường công tác môi trường sống.

Tiêu chí đánh giá sự phát triển về trí lực được phản ánh trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, ngoại ngữ, tin học; năng lực sáng tạo; kỹ năng lao động; kinh nghiệm làm việc, năng lực hiểu biết thực tiễn… Các tiêu chí đánh giá trình độ học vấn nguồn nhân lực gồm các chỉ tiêu định lượng về trình độ học vấn trung bình của bộ phận dân cư: Số lượng người trong độ tuổi lao động biết chữ và chưa biết chữ; số năm đi học trung bình dân số từ 15 tuổi trở lên của những người thuộc nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động và những người lao động đang làm việc; tỷ lệ đi học chung theo các bậc học; tỷ lệ đi học đúng tuổi, số người tốt nghiệp bậc học; tỷ lệ biết chữ của người dân từ 15 tuổi trở lên... Các chỉ tiêu này được tính cả số tuyệt đối và tương đối.

Trình độ chuyên môn, kỹ thuật phản ánh sự am hiểu, trình độ và khả năng thực hành của người lao động trong những lĩnh vực, công việc mà họ có được thông qua giáo dục, đào tạo. Trình độ chuyên môn, kỹ thuật được đánh giá qua các tiêu chí: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao động đang làm việc, phản ánh ở tỷ lệ giữa lao động đã được đào tạo từ sơ cấp, công nhân kỹ thuật, trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học với lực lượng lao động đang làm việc; tỷ lệ lao động được đào tạo theo cấp bậc so với tổng số lao động đang làm việc của cả nước; cơ cấu giữa các trình độ đào tạo của lực lượng lao động, phản ánh tỷ lệ tương quan giữa số lao động có trình độ sơ cấp, công nhân kỹ thuật/trung cấp chuyên nghiệp/cao đẳng, đại học và trên đại học có phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, thị trường lao động hay không. Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới luôn đảm bảo cơ cấu công nhân kỹ thuật/trung học chuyên nghiệp/đại học và sau đại học là 10/4/1; tỷ trọng lao động qua đào tạo có việc làm và thất nghiệp, phản ánh ở tỷ trọng giữa số lao động qua đào tạo đang làm việc với tổng số lao động được đào tạo.

Tiêu chí đánh giá tính năng động, sáng tạo và khả năng thích ứng bao gồm: Khả năng đặt ra vấn đề cần giải quyết; khả năng vận dụng kiến thức vào công việc; khả năng thích ứng nhanh với môi trường làm việc thay đổi; kỹ năng làm việc nhóm; kỹ năng làm việc độc lập; khả năng thích ứng nhanh với kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất công nghiệp; kỹ năng giao tiếp (đàm phán, thỏa thuận); khả năng giải quyết công việc; khả năng nắm bắt nhanh nhạy thông tin mới; tư duy năng động, sáng tạo, thành thạo chuyên môn, nghề nghiệp, năng lực tiếp thu chọn lọc và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại vào thực tiễn địa phương; có năng lực sáng tạo cả về lý thuyết và thực hành, khả năng thích ứng với môi trường, sự biến động và cạnh tranh quốc tế.

Phát triển tâm lực của nguồn nhân lực tỉnh Kiên Giang được biểu hiện qua nội dung nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm trong công việc, tác phong lao động công nghiệp, ý thức phấn đấu vươn lên trong chuyên môn và trách nhiệm với đồng nghiệp, ý thức kỷ luât tự giác trong thực hiện nhiệm vụ, tinh thần hợp tác trong công việc, kỹ năng ứng xử có văn hóa trong công việc, sự nhiệt tình say mê và niềm tin trong công việc. Phát triển về tâm lực đem lại cho nguồn nhân lực khả năng thực hiện tốt các chức năng xã hội, nâng cao năng lực sáng tạo của nguồn nhân lực này trong hoạt động thực tiễn. Sự phát triển về tâm lực là sự chuyển biến tích cực cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, thái độ, tác phong lao động.

Tiêu chí cụ thể đánh giá sự phát triển về tâm lực được phản ánh ở các nội dung như: Không suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; có bản lĩnh, năng động, sáng tạo trong công việc; có khả năng tự hoàn thiện, tự quản lý, tự đánh giá kết quả công việc của bản thân; tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; có tác phong công nghiệp; ý thức kỷ luật tự giác trong thực hiện nhiệm vụ, tinh thần hợp tác trong công việc; say mê nghề nghiệp, chuyên môn; khả năng thích ứng với những thay đổi trong lĩnh vực chuyên môn; kỹ năng ứng xử có văn hóa trong công việc.

Phong cách, tác phong lao động là chỉ tiêu phản ánh mặt định tính, được hình thành từ truyền thống văn hoá, văn minh dân tộc, tâm lý, phong tục tập quán, lối sống… tồn tại khá lâu trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt của dân cư ở từng vùng, từng dân tộc và từng ngành sản xuất có tác động mạnh đến chất lượng nguồn lao động. Phong cách, tác phong lao động công nghiệp của nguồn nhân lực được thể hiện ở thái độ làm việc, tốc độ thao tác, tính nghiêm túc chấp hành giờ giấc lao động, ý thức tổ chức kỷ luật, mức độ đoàn kết gắn bó giữa các cá nhân, các đoàn thể, tinh thần trách nghiệm đối với công việc… góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.

Phát triển về thể lực của nguồn nhân lực tỉnh Kiên Giang được biểu hiện qua nội dung nâng cao thể chất tinh thần, sức lao động, tầm vóc, sự nhanh nhẹn tháo vát, bền bỉ, dẻo dai trong lao động trí tuệ sáng tạo, ở sức mạnh của cơ bắp trong công việc, khả năng chống chọi với bệnh tật, khả năng chịu đựng những tác động của môi trường làm việc và khả năng tập trung khi làm việc. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, phát triển thể lực của nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng để chuyển tải, tiếp nhận tri thức khoa học - công nghệ, kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp thành sức mạnh của lực lượng sản xuất để tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm mới cho xã hội. Người lao động dù có năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt đến mấy nếu không đảm bảo sức khỏe, thể lực chắc chắn sẽ giảm sút rất nhiều khả năng làm việc, hiệu suất lao động.

Ở Việt Nam hiện nay, việc đánh giá thể trạng sức khỏe của nguồn nhân lực được Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng xác định thông qua các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu thể lực chung (Chiều cao, cân nặng, vòng ngực); mắt; tai mũi họng, răng hàm mặt; nội khoa; ngoại khoa; thần kinh và da liễu. Trên cơ sở các chỉ tiêu, trạng thái sức khoẻ nguồn nhân lực được đánh giá xếp loại thành 3 loại: Loại A: Thể lực tốt; Loại B: Thể lực trung bình; Loại C: Thể lực yếu (thời gian ốm nằm viện trên 1 tháng/năm). Như vậy, phát triển về thể lực của nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang cũng cần phải bám vào những tiêu chí nói trên.

Ba là, phát triển về cơ cấu của nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang theo hướng ngày càng hợp lý.

Việc hoàn thiện nguồn nhân lực về cơ cấu là một nội dung quan trọng trong kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Kiên Giang ở cả hiện tại tương lai. Do yêu cầu của sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ, văn hóa - thể thao, quản lý doanh nghiệp, ngành công nghiệp - xây dựng, dịch vụ - du lịch, nông thôn... đặt ra nhu cầu về nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang thời gian tới cho các lĩnh vực này rất lớn cả về cơ cấu trình độ đào tạo do phát triển lĩnh vực mới; cơ cấu lứa tuổi, giới tính do nhu cầu quy hoạch phát triển. Tiêu chí đánh giá sự phát triển về cơ cấu của nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang được thể hiện ở sự thay đổi, chuyển dịch về cơ cấu theo trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật; giới tính; độ tuổi; giữa các ngành, thành phần kinh tế, các địa phương, giữa thành thị và nông thôn; điều chỉnh tỷ lệ cán bộ, công chức, cán bộ y tế, khoa học, công nghệ trên một vạn dân... theo hướng ngày càng hoàn thiện, hợp lý hơn.

Bốn là, kết quả đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, sử dụng và trọng dụng nguồn nhân lực.

Sự phát triển về tâm lực, trí lực, thể lực được phản ánh rõ nét ở kết quả đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đây là một tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát triển nguồn nhân lực. Hệ thống giáo dục, đào tạo, nếu được tổ chức, đổi mới hợp lý không ngừng, nâng cao chất lượng thì sẽ tạo sự phát triển mạnh mẽ chất lượng nguồn nhân lực. Tiêu chí này phản ánh thông qua hệ thống giáo dục, đào tạo quốc dân trong dân số của tỉnh. Đó là dân số nhóm tuổi 6 - 23 tuổi đang đi học; dân số nhóm tuổi 18 - 23 tuổi đang đi học (trên tỷ lệ (%) tổng dân số trong nhóm tuổi); số người được đào tạo nghề hng năm với mức độ tăng, giảm (1.000 lượt người đối với đào tạo nghề từ sơ cấp trở xuống); số học sinh tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp; số sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học hng năm; số học viên tốt nghiệp Thạc sĩ hng năm; số nghiên cứu sinh bảo vệ luận án Tiến sĩ hng năm; số học sinh các trường trung cấp nghề; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng nghề hng năm; số sinh viên cao đẳng; số sinh viên đại học, cao học, nghiên cứu sinh hng năm.

Việc đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, sử dụng và trọng dụng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là tiêu chí quan trọng đánh giá và phản ánh thực chất quá trình phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang trong những năm tới. Chỉ khi nào có cơ chế, chính sách mang tính đột phá, chiến lược và hiệu quả thì mới có nguồn nhân lực chất lượng cao. Nó đề cập đến việc hoàn thiện, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm thu hút, sử dụng và trọng dụng nguồn nhân lực, phát huy hiệu quả sau đào tạo, kết hợp với sử dụng bố trí nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý. Tiêu chí đánh giá việc thu hút, sử dụng và trọng dụng nguồn nhân lực chủ yếu là: Lao động làm việc trong nền kinh tế (số lượng tuyệt đối - % lực lượng lao động). Chỉ số về tốc độ tăng bình quân hng năm; mức tăng (giảm) hng năm; cơ cấu theo ngành kinh tế; số người thất nghiệp; năng suất lao động (tính theo giá trị GDP hoặc giá trị gia tăng trên 1 lao động làm việc).

Tạo môi trường bình đẳng, minh bạch để thi tuyển, lựa chọn cán bộ, công chức, người có thực tâm, thực tài vào bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh các chương trình hợp tác, liên kết đào tạo nguồn nhân lực có trình độ sau đại học ở nước ngoài, lựa chọn các trường đại học, viện nghiên cứu quốc tế ở các nước trên thế giới có trình độ khoa học tiên tiến, có trình độ quản lý cao phù hợp với lĩnh vực ngành nghề tỉnh Kiên Giang cần đào tạo. Chú trọng các quốc gia có hợp tác đào tạo với các trường trong nước. Từng bước hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên gia giỏi cho tỉnh. Tạo môi trường làm việc thuận lợi và cơ hội thăng tiến bình đẳng. Có chính sách sử dụng, đãi ngộ nhân tài công bằng và hợp lý. Thực hiện xét tuyển đặc cách đối với người đã tốt nghiệp sau đại học ở nước ngoài về tỉnh công tác.

Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề then chốt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, địa phương. Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và tiêu chí đánh giá phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang có vai trò rất quan trọng để các chủ thể đánh giá thực trạng, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân, xác định rõ các vấn đề đặt ra cần giải quyết, đặc biệt là cơ sở khoa học để đề xuất các quan điểm và giải pháp tiếp tục phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.



[1] Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang (2017), Đề án phát triển nguồn nhân lực tỉnh Kiên Giang đến năm 2020 và những năm tiếp theo (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 104/2017/NQ-HĐND ngày 20/7/2017 của Hội đồng nhân dân), Kiên Giang, tr. 6.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất