“DÂN CƯỜNG THÌ NƯỚC THỊNH”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định công tác TDTT là một trong những công tác cách mạng, định hướng TDTT phục vụ đắc lực cho mục tiêu “dân cường, nước thịnh”. Hoạt động TDTT không chỉ phục vụ sức khoẻ nhân dân, mà còn góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục…
Ngườichỉ rõ: “Dưới chế độ dân chủ, thể thao và thể dục phải trở thành hoạt động chung của quần chúng, nhằm mục đích làm tăng cường sức khoẻ của nhân dân. Nhân dân có sức khoẻ thì mọi công việc đều làm được tốt”. “Vậy nên luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi một người dân yêu nước”. Từ đó, Ngườiđưa ra chủ trương:“Chúng ta nên phát triển phong trào thể dục thể thao rộng khắp”.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về vai trò của TDTT trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, góp phần phát huy tối đa sức mạnh con người, cộng đồng và xã hội nhằm tạo ra sự đoàn kết xã hội, nguồn lực xã hội. Xuất phát từ vị trí và vai trò của TDTT với sự nghiệp đổi mới, vấn đề phát triển TDTT quần chúng được đặt ra như một yêu cầu cấp bách.
Trong đường lối phát triển, Đảng ta luôn coi trọng, đẩy mạnh lãnh đạo, chỉ đạo công tác TDTT quần chúng, coi đây là một trong những điều kiện để hình thành và phát triển các thế hệ ngườiViệt khỏe về thể chất, trong sáng về tâm hồn, góp phần cải thiện tầm vóc, thể lực con người Việt Nam; tạo ra sự gắn kết xã hội giữa các cá nhân, cá nhân với cộng đồng và xã hội; phát triển môi trường sống lành mạnh, đẩy lùi tệ nạn xã hội, góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, TDTT quần chúng được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Mục tiêu và động lực của đổi mới xuất phát từ con người và vì con người. Hay nói khác đi, con người vừa là chủ thể vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Theo đó, Đảng ngày càng khẳng định vai trò của TDTT quần chúng đối với việc phát huy nhân tố con người, huy động sự tham gia của cộng đồng, xã hội. Bởi, sự nghiệp đổi mới chỉ thành công khi tạo ra những cá nhân là chủ thể có ý thức, có sự gắn kết với nhau cùng chung sức xây dựng cộng đồng, xã hội.
Đại hội VI của Đảng (1986) đã khẳng định vai trò quan trọng của TDTT, trong đó có TDTT quần chúng như là một chính sách xã hội góp phần khôi phục và tăng cường sức khỏe nhân dân: “Cùng với công tác y tế, công tác thể dục, thể thao góp phần khôi phục và tăng cường sức khoẻ của nhân dân”; “Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào thể dục, thể thao quần chúng, từng bước đưa việc rèn luyện thân thể thành thói quen hằng ngày của nhân dân đông đảo, trước hết là của thế hệ trẻ. Nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong các trường học. Củng cố và mở rộng hệ thống trường, lớp năng khiếu thể thao, phát triển lực lượng vận động viên trẻ. Lựa chọn và tập trung sức nâng cao thành tích một số môn thể thao. Coi trọng việc giáo dục đạo đức, phong cách thể thao xã hội chủ nghĩa. Cố gắng bảo đảm các điều kiện về cán bộ, về khoa học, kỹ thuật, cơ sở vật chất và nhất là về tổ chức, quản lý cho công tác thể dục, thể thao”(1).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 đã định hướng: “Phát triển các công trình công cộng như trường học, bệnh viện, các công trình văn hoá, thể dục, thể thao... Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội(2).
Trong nhiệm vụ thực hiện chính sách bảo vệ sức khoẻ của Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục khẳng định: “Xây dựng phong trào toàn dân rèn luyện thân thể, hoạt động thể dục, thể thao, nhất là trong thanh, thiếu niên; kết hợp phổ cập và nâng cao. Phát triển các câu lạc bộ và hội thể dục thể thao hoạt động theo nguyên tắc tự quản và tự bù đắp chi phí có sự quản lý và tài trợ một phần cần thiết của Nhà nước”(3). Phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của 5 năm, giai đoạn từ năm 1991 -1995 cũng xác định: “...tổ chức hướng dẫn và vận động đông đảo nhân dân tham gia rèn luyện thân thể hằng ngày;(...). Cải tiến tổ chức, quản lý các hoạt động thể dục, thể thao theo hướng kết hợp chặt chẽ các tổ chức nhà nước và các tổ chức xã hội...”(4).
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII-Đại hội đưa đất nước ta tiến vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,khẳng định: “Phát triển phong trào thể dục thể thao sâu rộng trong cả nước, trước hết là trong thanh, thiếu niên; tạo chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả giáo dục thể chất trong trường học, trong các lực lượng dự bị quốc phòng và lực lượng vũ trang. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về thể dục, thể thao. Từng bước hình thành lực lượng thể thao chuyên nghiệp”(5).
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh “Phát động phong trào toàn dân tập luyện thể dục, thể thao, nâng cao sức khoẻ và tầm vóc người Việt Nam; phổ biến rộng rãi kiến thức về tự bảo vệ sức khoẻ...”; “đẩy mạnh xây dựng thư viện, nhà văn hoá, nhà thông tin, câu lạc bộ sức khoẻ, sân bãi thể dục thể thao, khu vui chơi giải trí...”(6); “Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tăng cường tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi. Tăng cường thể lực của thanh niên. Phát triển mạnh thể dục thể thao, kết hợp tốt thể thao phong trào và thể thao thành tích cao, dân tộc và hiện đại. Có chính sách và cơ chế phù hợp để phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng, đưa thể thao nước ta đạt vị trí cao của khu vực, từng bước tiếp cận với châu lục và thế giới”(7).
Cùng với những nội dung trong Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, như: “Đẩy mạnh các hoạt động thể dục thể thao cả về quy mô và chất lượng. Khuyến khích và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia hoạt động và phát triển sự nghiệp thể dục thể thao. Phát triển mạnh thể thao quần chúng, thể thao nghiệp dư, trước hết là trong thanh niên, thiếu niên(...) Khuyến khích các doanh nghiệp ngoài công lập đầu tư và kinh doanh cơ sở tập luyện, thi đấu thể thao(...) Chuyển giao hoạt động tác nghiệp về thể thao cho các tổ chức xã hội và các cơ sở ngoài công lập thực hiện”(8), Văn kiện Đại Hội X cũng đã thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển TDTT nhằm nâng cao sức khỏe, thể lực, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, góp phần thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội và đối ngoại.
Quan điểm này một lần nữa được Đảng nhấn mạnh tại Đại hội XI: “Tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hoá ở các cấp, đồng thời có kế hoạch cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một số công trình văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại ở các trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá của đất nước”; “Phát triển mạnh phong trào thể dục, thể thao đại chúng, tập trung đầu tư nâng cao chất lượng một số môn thể thao thành tích cao nước ta có ưu thế. Kiên quyết khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong thể thao”(9).
Đặc biệt, ngày 1/12/2011, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020” với 3 quan điểm cơ bản: 1) Phát triển TDTT là một yêu cầu khách quan của xã hội, nhằm góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực và chất lượng cuộc sống của nhân dân, chất lượng nguồn nhân lực; giáo dục ý chí, đạo đức, xây dựng lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế; đồng thời, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội và của mỗi người dân, đảm bảo cho sự nghiệp thể dục, thể thao ngày càng phát triển. 2) Ðầu tư cho TDTT là đầu tư cho con người, cho sự phát triển của đất nước. Tăng tỷ lệ chi ngân sách nhà nước, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất TDTT và đào tạo vận động viên thể thao thành tích cao; đồng thời phát huy các nguồn lực của xã hội để phát triển TDTT. Ðổi mới quản lý nhà nước về TDTT, phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức xã hội trong quản lý, điều hành các hoạt động TDTT. 3) Giữ gìn, tôn vinh những giá trị TDTT dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, phát triển nền TDTT nước ta mang tính dân tộc, khoa học, nhân dân và văn minh.
Trong Nghị quyết 33-NQ/TW (2014) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Đảng ta cũng khẳng định và nhấn mạnh vai trò của TDTT nói chung và TDTT quần chúng nói riêng trong việc xây dựng văn hóa, con người Việt Nam: “Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(10).
Với mục tiêu tăng cường sức khỏe nhân dân, đồng thời ứng phó với quá trình già hóa dân số, chuyển đổi từ mô hình bệnh tật từ lây nhiễm sang không lây nhiễm nhằm chia sẻ gánh nặng với y tế, Đại hội XII, tại Đảng ta xác định: “Phát triển thể dục, thể thao toàn dân để góp phần nâng cao sức khỏe cho nhân dân, đồng thời làm cơ sở để phát triển thể thao thành tích cao”(11). Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 25/10/2017của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới” cũng nhấn mạnh: “Xây dựng và tổ chức thực hiện đồng bộ các đề án, chương trình về nâng cao sức khỏe và tầm vóc người Việt Nam”, “Đổi mới căn bản giáo dục thể chất, tâm lý, tăng số môn tập luyện tự chọn trong nhà trường, kết hợp chặt chẽ với tập luyện ngoài nhà trường. Phát triển mạnh các phong trào rèn luyện thân thể”(12).
Trong Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017 về “Công tác dân số trong tình hình mới”, Đảng ta cũng đã xác định nhiệm vụ và giải pháp: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, khơi dậy phong trào mọi người dân thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, có lối sống lành mạnh, chế độ dinh dưỡng hợp lý để nâng cao sức khỏe tầm vóc, thể lực người Việt Nam”.
Tiếp nối với những quan điểm, chủ trương được thống nhất, phát triển qua các kỳ Đại hội, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Thực hiện tốt “Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011 - 2030”. Phát triển thể dục, thể thao toàn dân để tăng cường sức khoẻ của nhân dân, làm cơ sở cho phát triển thể dục, thể thao thành tích cao”.
Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm và khẳng định vai trò của TDTT nói chung và TDTT quần chúng nói riêng trong việc phát huy nhân tố con người, phát triển kinh tế-xã hội, văn hóa và đối ngoại. TDTT không chỉ phát huy tiềm năng của cá nhân, mà còn phát huy sức mạnh của cộng đồng, xã hội, tạo nên nguồn lực to lớn trong quá trình thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
|
Từ những chủ trương, định hướng của Đảng qua mỗi kỳ Đại hội, có thể khẳng định: Sau hơn 30 năm đổi mới toàn diện, cùng với những nhân tố làm cho “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”(13), có vai trò của công tác TDTT nói chung, TDTT quần chúng nói riêng. Trong tình hình mới, để TDTT quần chúng tiếp tục phát triển mạnh mẽ, hợp lý, hiệu quả hơn nữa, phù hợp với thực tiễn cách mạng đang đặt ra, cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Nhằm thực hiện quan điểm, nhiệm vụ của Đảng về phát triển TDTT quần chúng, góp phần nâng cao tầm vóc, thể lực con người Việt Nam, tăng cường sức khỏe nhân dân, bảo tồn và phát triển văn hóa thể chất của dân tộc, trong thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp sau:
Một là, tăng cường tuyên truyền các mô hình TDTT vì sức khỏe cộng đồng, các bài tập thể dục tăng cường sức khỏe nhằm giúp nhân dân thấy được ý nghĩa của tập luyện TDTT đối với sức khỏe cá nhân, cộng đồng và xã hội; tăng số lượng người tham gia luyện tập thường xuyên, tạo ra phong trào rộng khắp tập luyện TDTT ở các độ tuổi, giới tính, phù hợp với đặc điểm thể chất và điều kiện sống của người dân.
Hai là, định hướng, hướng dẫn thực hiện các chương trình hoạt động thể chất tăng cường sức khỏe. Đề ra các giải pháp phát triển chương trình y tế trong các thiết chế thể dục thể thao vì sức khỏe cộng đồng. Cần có sự phối hợp giữa ngành Y tế và ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch để xây dựng hồ sơ y tế cho các môn thể thao và phát triển các môn thể thao cho các chương trình y tế - sức khỏe cộng đồng. Tăng cường vai trò của các tổ chức thể thao trong việc phát triển các chương trình TDTTvì sức khỏe cộng đồng trong các câu lạc bộ, trung tâm thể thao. Xây dựng tài liệu phục vụ cho công tác tuyên truyền về vai trò của tập luyện thể thao đối với sức khỏe và các hoạt động thể thao tăng cường sức khỏe.
Tham mưu với cấp ủy Đảng lãnh đạo, chỉ đạo phát triển các thiết chế TDTT; các chương trình thể thao tăng cường sức khỏe và hỗ trợ nhà trường tổ chức giáo dục thể chất và hoạt động thể thao nhằm kết nối giữa TDTT trường học với TDTT quần chúng và tạo điều kiện để mọi người tập luyện thể thao thường xuyên.
Ba là, tổ chức, hướng dẫn người dân tập luyện TDTT tăng cường sức khỏe. Đẩy mạnh công tác đào tạo cộng tác viên là cán bộ đoàn, hội phụ nữ, người cao tuổi về phát triển các câu lạc bộ TDTT tăng cường sức khỏe nhằm hướng dẫn người dân tập luyện và phát triển câu lạc bộ TDTT tăng cường sức khỏe.
Bốn là, gắn việc tập luyện TDTT tăng cường sức khỏe của người dân với việc triển khai các cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và “Chương trình xây dựng nông thôn mới” nhằm tạo ra môi trường sống an toàn, thân thiện. Bố trí cơ sở vật chất phục vụ tập luyện TDTT của người dân. Tổ chức các giải thể thao để người dân thể hiện và khẳng định trình độ tập luyện và góp phần tuyên truyền các tấm gương luyện tập TDTT, nuôi dưỡng thói quen và yêu thích tập luyện TDTT của người dân./.
TS. PHẠM GIA CƯỜNG
Phó Vụ trưởng vụ Các vấn đề xã hội
Ban Tuyên giáo Trung ương
_______________________
(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, H, 1987.
(3) (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, H, 1991.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Sự thật, H, 1996.
(6) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2001.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2006.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011.
(10) Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014củaBan Chấp hành Trung ương về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
(11) (13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016.
(12) Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 25/10/2017của Ban Chấp hành Trung ương vềTăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.