QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ
Quan
hệ đối tác chiến lược được xác định là mức độ cao của quan hệ đối tác,
trong đó hai bên nhất trí thực hiện các mục tiêu chung thông qua việc
xây dựng và triển khai những chiến lược, kế hoạch, từ đó hình thành các
cơ chế hợp tác cụ thể trong các lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực có tầm quan
trọng thiết yếu đối với an ninh, phát triển và ảnh hưởng của mỗi bên.
Hình thức quan hệ này xuất hiện sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc và
ngày càng trở nên phổ biến, thu hút nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các
học giả và các nhà hoạch định chính sách. Một số lý thuyết về quan hệ
quốc tế mặc dù không lý giải trực tiếp và toàn diện về quan hệ đối tác
chiến lược, nhưng đã góp phần quan trọng giải thích những khía cạnh chủ
chốt của hình thức quan hệ này.
Xét
từ góc độ lợi ích quốc gia - dân tộc, các quốc gia đều mong muốn đạt
được mục tiêu về an ninh, phát triển và ảnh hưởng khi tham gia thiết lập
và thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược. Theo chủ nghĩa hiện thực, quyền
lực là chủ thể quan trọng hàng đầu chi phối nền chính trị quốc tế, do
vậy, các quốc gia đều mong muốn tranh giành quyền lực, tăng cường sức
mạnh và mở rộng ảnh hưởng. Trong môi trường vô chính phủ do thiếu cơ chế
của một “siêu chính phủ” có quyền lực bao trùm quản lý và điều tiết
quan hệ quốc tế, hòa bình và hợp tác sẽ chỉ mang tính chất tạm thời,
xung đột mới là tuyệt đối và mang tính bản chất của quan hệ quốc tế(1).
Tuy nhiên, do nắm giữ sức mạnh tổng hợp quốc gia và tham vọng khác
nhau, một số nước có thể trở thành mối đe dọa về an ninh đối với các
nước yếu thế hơn, vì vậy, các quốc gia phải tìm cách để bảo đảm an ninh
và đạt được trạng thái cân bằng quyền lực thông qua phương thức hợp tác
với nhau. Nhà sử học Hy Lạp cổ đại Thucydides nhấn mạnh, “sự đồng nhất
về lợi ích là mối kết nối bền vững nhất giữa quốc gia và cá nhân”(2).
Đứng
trên quan điểm của trường phái lý thuyết của mình, chủ nghĩa tự do cho
rằng, do có nhiều lực lượng tham gia xác định lợi ích quốc gia nên lợi
ích quốc gia đa dạng, không chỉ giới hạn trong lĩnh vực an ninh và quyền
lực, mà còn bao gồm sự thịnh vượng, phúc lợi và môi trường. Chính vì
vậy, quan hệ quốc tế mang tính đa lĩnh vực, trong đó lợi ích quốc gia
trong chính trị và kinh tế đóng vai trò quan trọng nhất, gắn bó mật
thiết và tác động qua lại lẫn nhau; đồng thời, chính trị và kinh tế cũng
là hai lĩnh vực quan trọng trong quan hệ quốc tế. Đây cũng là điểm khác
biệt so với chủ nghĩa hiện thực vốn cho rằng, chính trị nắm giữ vai trò
chủ đạo trong quan hệ quốc tế(3). Đặc biệt, chủ nghĩa tự do
nhấn mạnh, các quốc gia có khả năng thực hiện hài hòa lợi ích, do đó có
điều kiện để tăng cường hợp tác, góp phần giảm trừ xung đột, thúc đẩy
kinh tế và phát huy dân chủ tự do(4). Một luận điểm quan
trọng khác được nhấn mạnh trong thuyết chủ nghĩa tự do mới, đó là sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, các doanh nghiệp và các tầng lớp xã
hội như là kết quả của sự phát triển trong kinh tế thị trường, diễn ra
không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, mà còn lan sang những lĩnh vực khác,
góp phần làm gia tăng sự hiểu biết và hợp tác giữa các quốc gia. Ngoài
ra, chủ nghĩa tự do mới cũng chỉ rõ những lợi ích mà các thể chế quốc tế
có thể mang đến cho các quốc gia, bao gồm: 1) Tôn chỉ hoạt động của thể
chế phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của các bên tham gia; 2) Các cơ
chế, nguyên tắc, quy định, luật lệ trong thể chế giúp giải quyết tranh
chấp, ngăn ngừa xung đột, tăng cường hiểu biết và lòng tin; 3) Các thể
chế giúp giảm tải tình trạng vô chính phủ, thúc đẩy thực thi pháp luật;
4) Các thể chế quản lý, điều tiết sự phụ thuộc lẫn nhau(5).
Nếu xem khuôn khổ đối tác chiến lược là một hình thức đặc biệt của thể
chế quốc tế thì chủ nghĩa tự do mới cung cấp cách tiếp cận để giải thích
những khía cạnh liên quan đến mục tiêu và hình thức mà các quốc gia
theo đuổi trong mối quan hệ này.
Bàn
luận về một khía cạnh khác thúc đẩy các quốc gia hợp tác, chủ nghĩa
kiến tạo nhận định rằng, khi các nước có chung bản sắc, cơ hội hợp tác
sẽ dễ dàng hơn(6). Trong quá trình giao thiệp với các quốc
gia khác, dựa trên hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa, các quốc gia
định hình những nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi - những biểu hiện mang
tính bản sắc. Tuy nhiên, các yếu tố bản sắc không phải là tiêu chí duy
nhất để các quốc gia quyết định xây dựng quan hệ hợp tác hoặc đấu tranh.
Bên cạnh yếu tố bản sắc, yếu tố lợi ích cần phải được tính đến trong
quá trình này. Khi các quốc gia chia sẻ nhiều điểm đồng về bản sắc và
lợi ích thì khả năng thiết lập và duy trì hợp tác càng cao(7).
Đề
cập đến các lĩnh vực phục vụ phát triển, thuyết chức năng
(functionalism) với đại diện là nhà sử học người Anh David Mitrany cho
rằng, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra
ngày càng mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, các quốc gia khó lòng đạt được
các mục tiêu phát triển nếu thiếu sự hợp tác với các quốc gia khác(8).
Mặt khác, lý thuyết về lợi thế so sánh mà nhà kinh tế học người Anh
David Ricardo khởi xướng đã chỉ rõ, mỗi quốc gia, với những lợi thế vốn
có của mình, thực hiện chuyên môn hóa trong các lĩnh vực mà họ có lợi
thế so sánh, khi tham gia hợp tác với nhau, mức phúc lợi toàn cầu chắc
chắn sẽ gia tăng đáng kể(9). Do vậy, quan hệ đối tác chiến lược tạo dựng cơ sở vững chắc và lâu dài để các quốc gia khai thác lợi thế so sánh của nhau.
Các
luận thuyết về hợp tác và đấu tranh trong các học thuyết lý luận quan
hệ quốc tế đã lý giải một số khía cạnh quan trọng về việc các chủ thể
tham gia thiết lập và thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược. Khi tham gia
hình thức quan hệ này, các chủ thể mong muốn chia sẻ những mối quan tâm
và thực hiện các mục tiêu chung với nhận thức rằng, hình thức quan hệ
này là phương cách hiệu quả để hướng tới các mục tiêu chung đó mà không
phải đánh đổi quyền tự chủ của mỗi chủ thể. Giáo sư Sean Kay nhấn mạnh,
quan hệ đối tác chiến lược là công cụ được các quốc gia sử dụng để tối
đa hóa vị thế chính trị, kinh tế và quân sự trong nền chính trị quốc tế(10).
THỰC TIỄN THIẾT LẬP VÀ TRIỂN KHAI QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
Trung Quốc
Kể
từ khi Trung Quốc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược đầu tiên với
Brazil vào năm 1993, mô hình này đã trở thành một cấu phần quan trọng
trong nền ngoại giao Trung Quốc. Tính đến cuối năm 2022, với 110 quan hệ
đối tác chiến lược, Trung Quốc là quốc gia có nhiều quan hệ đối tác
chiến lược nhất trên thế giới(11).
Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hội đàm với Tổng thống Brazil Lula da Silva tại Bắc Kinh, trong khuôn khổ chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Brazil Lula da Silva, góp phần làm sâu sắc thêm quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Trung Quốc - Brazil, ngày 14/4/2023. (Ảnh: AFP).
Hiện
nay, mặc dù chưa có tài liệu chính thức của Trung Quốc đề cập đến các
tiêu chuẩn để xác định đối tác chiến lược của Trung Quốc với các nước và
các tổ chức quốc tế, nhưng có thể nhận diện một số đặc điểm quan hệ đối
tác chiến lược của Trung Quốc qua phát biểu của Thủ tướng Trung Quốc Ôn
Gia Bảo trong chuyến thăm châu Âu vào năm 2004 khi ông cho rằng, “chiến
lược” mang tính “lâu dài” và “ổn định”; “quan hệ đối tác” hàm ý “bình
đẳng”, “hai bên cùng có lợi” và “hai bên cùng thắng”(12). Tuy
vậy, thực tiễn của các mối quan hệ đối tác chiến lược của Trung Quốc
cho thấy những đặc điểm này được diễn giải linh hoạt và khác nhau trong
từng mối quan hệ. Các cơ chế trong khuôn khổ đối tác chiến lược của
Trung Quốc với các đối tác rất đa dạng. Tùy thuộc vào tầm quan trọng và
đặc điểm của từng đối tác, Trung Quốc và các đối tác đã xây dựng những
khuôn khổ, cơ chế tương xứng trong các lĩnh vực, như xây dựng đường dây
nóng và đối thoại chiến lược, thành lập các ủy ban để phối hợp hành
động, tổ chức các cuộc liên hoan, trao đổi, giao lưu… Về phạm vi hợp
tác, các mối quan hệ đối tác chiến lược thường bao gồm nhiều lĩnh vực,
như chính trị - ngoại giao, quốc phòng - an ninh, kinh tế, thương mại -
đầu tư, các vấn đề đa phương khu vực và quốc tế,… Tùy vào từng đối tác
riêng biệt mà một số vấn đề cụ thể sẽ được nhấn mạnh và ưu tiên hơn
trong quan hệ. Việc coi trọng hợp tác theo kênh đảng được nhấn mạnh
trong quan hệ đối tác chiến lược của Trung Quốc với Việt Nam do những
điểm tương đồng về ý thức hệ và lịch sử quan hệ giữa Đảng Cộng sản Trung
Quốc với Đảng Cộng sản Việt Nam; hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, thương
mại và đầu tư đóng vai trò chủ đạo trong quan hệ đối tác chiến lược của
Trung Quốc với các nước đang phát triển; trao đổi về nội dung nhân
quyền là chủ đề thường được đề cập giữa Trung Quốc và các nước phương
Tây.
Đức
Với 8 đối tác chiến lược hiện đang được duy trì(13),
trong đó có 5 đối tác chiến lược ở khu vực châu Á (Ấn Độ, Trung Quốc,
Indonesia, Australia, Việt Nam) và mỗi đối tác ở một khu vực, bao gồm
Nam Phi (châu Phi), Brazil (Nam Mỹ) và Các Tiểu vương quốc Saudi Arabia
(Trung Đông), so với các nước lớn khác, quan hệ đối tác chiến lược của
Đức chưa nhiều về số lượng, nhưng đa dạng về đối tác, bao gồm cả đối tác
có thể chế tương đồng hoặc đối tác có nền chính trị khác biệt, đối tác
chia sẻ quan điểm về những vấn đề khu vực và toàn cầu. Đặc điểm chung
của các đối tác này chính là vai trò ngày càng tăng lên trong quản trị
khu vực và toàn cầu, cũng như không thể thiếu được trong các giải pháp
tập thể cho các vấn đề toàn cầu của thế kỷ XXI(14). Các cơ
chế hợp tác trong quan hệ đối tác chiến lược không giống nhau, phản ánh
mức độ ưu tiên của Đức đối với từng đối tác. Trong khi Đức thiết lập cơ
chế đối thoại liên chính phủ với Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ do thủ
tướng của hai bên đồng chủ trì, Đức duy trì các cơ chế tham vấn chính
trị ở cấp độ thấp hơn với Australia, Indonesia và Việt Nam. Cụ thể, Đức
và Việt Nam duy trì cơ chế tham vấn chính trị giữa Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao Việt Nam và Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Cộng hòa Liên bang Đức.
Phạm
vi hợp tác trong các mối quan hệ đối tác chiến lược của Đức thể hiện sự
toàn diện và bao trùm trên các lĩnh vực, tuy nhiên, hợp tác trong lĩnh
vực kinh tế với các nước châu Á, như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và
Việt Nam được Đức đặc biệt thúc đẩy. Bên cạnh đó, những vấn đề khu vực
và toàn cầu, nhất là cải tổ các cơ chế hợp tác đa phương, bao gồm Liên
hợp quốc, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) cũng là
những ưu tiên mà Đức hướng tới trong quan hệ với các đối tác chiến
lược.
Nhìn
chung, quan hệ đối tác chiến lược của Đức với các đối tác thời gian qua
có thể phát triển theo hai hướng, hoặc phát triển nâng cấp lên đối tác
chiến lược tăng cường (Australia) hoặc nâng cấp lên đối tác chiến lược
toàn diện (Trung Quốc). Ngay cả trong quan hệ đối tác chiến lược toàn
diện Đức - Trung Quốc vẫn duy trì hình thức vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Đức Norbert Röttgen cho rằng, Trung
Quốc đã trở thành “thách thức chính sách đối ngoại lớn nhất đối với Đức”(15).
Thủ tướng Đức Angela Merkel coi Trung Quốc là “đối tác chiến lược” và
“đối thủ cạnh tranh chiến lược”, trong bối cảnh Đức đang ở thế “cạnh
tranh có hệ thống”(16).
Việt Nam
Sau
nhiều năm triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, đến nay, Việt
Nam đã thiết lập được 17 khuôn khổ đối tác chiến lược (17),
trong đó có 4 khuôn khổ đối tác chiến lược toàn diện, với các đối tác
trọng tâm và trọng điểm, như thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc (Trung Quốc, Nga, Anh, Pháp), các nước lớn tại khu vực châu Âu
(Tây Ban Nha, Anh, Đức, Italy, Pháp), các nước thành viên của Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN (Thái Lan, Indonesia, Singapore,
Malaysia và Philippines), các nước lớn tại khu vực châu Á (Ấn Độ, Nhật
Bản, Hàn Quốc) và châu Đại Dương (Australia và New Zealand). Các khuôn
khổ đối tác chiến lược của Việt Nam với các nước có sự đa dạng trong các
cơ chế hợp tác, bao gồm các cuộc trao đổi và tiếp xúc của lãnh đạo cấp
cao giữa hai nước theo các hình thức linh hoạt; các cơ chế phối hợp giữa
các cơ quan đảng, các bộ, ban, ngành ở Trung ương và địa phương giữa
hai nước; sự phối hợp chặt chẽ trên các diễn đàn đa phương khu vực và
quốc tế về những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm. Dù vậy, số lượng, tính
chất và mức độ hiệu quả của các hình thức này khác nhau trong từng đối
tác. Lĩnh vực hợp tác trong các khuôn khổ này mang tính chất toàn diện,
bao gồm lĩnh vực chính trị - ngoại giao, kinh tế, quốc phòng - an ninh,
khoa học - công nghệ, văn hóa, pháp luật,… Tuy nhiên, tùy thuộc vào thế
mạnh và mong muốn của mỗi nước mà các lĩnh vực có thứ tự ưu tiên khác
nhau và được thúc đẩy với mức độ hiệu quả, thành công khác nhau. Các
khuôn khổ đối tác chiến lược của Việt Nam đã mang lại nhiều kết quả tích
cực trong việc đạt được các mục tiêu an ninh, phát triển và nâng cao vị
thế. Thế nhưng, vẫn tồn tại một số hạn chế trong các khuôn khổ này, như
lòng tin chiến lược chưa bền vững, mức độ hiệu quả của một số cơ chế
chưa cao, một số lĩnh vực hợp tác chưa tương xứng với tiềm năng hợp tác
của hai bên… Những hạn chế này cần tiếp tục được nghiên cứu để từ đó, đề
xuất các giải pháp góp phần giúp Việt Nam và các đối tác thúc đẩy quan
hệ đối tác chiến lược hiệu quả hơn.
Thiếu nhi Hà Nội tặng hoa chào mừng Thủ tướng Đức Olaf Scholz thăm chính thức Việt Nam, ngày 13/11/2022. (Ảnh: TTXVN).
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT THAM CHIẾU ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Trên
cơ sở xem xét tổng quan về quan hệ đối tác chiến lược trong quan hệ
quốc tế cũng như thực tiễn thiết lập và triển khai quan hệ đối tác chiến
lược của một số quốc gia trên thế giới, để thúc đẩy quan hệ đối tác
chiến lược giữa Việt Nam với các nước trong thời gian tới, cần lưu ý các
vấn đề sau:
Thứ nhất,
bám sát đường lối đối ngoại đã được xác định tại Đại hội XIII của Đảng,
trong đó tập trung làm sâu sắc hơn các mối quan hệ đối tác chiến lược,
đối tác toàn diện thông qua việc tiếp tục nâng cao sức mạnh tổng hợp
quốc gia, tạo thêm “thế” và “lực” cũng như tăng cường vị thế chiến lược
của Việt Nam trong các mối quan hệ với các đối tác. Tiếp tục kiên trì
“Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh
của thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới”(18). Bên cạnh đó, trong bối cảnh cục diện thế
giới chuyển biến nhanh chóng, phức tạp và khó đoán định, việc định vị vị
trí của Việt Nam trong chính sách của mỗi đối tác có vai trò hết sức
quan trọng, qua đó có thể chủ động nắm bắt nhằm bảo đảm quan hệ giữa
Việt Nam với các đối tác không bị chệch quỹ đạo mà hai nước đã đề ra và
tạo dư địa để thúc đẩy quan hệ với các đối tác ngày càng đi vào chiều
sâu, thực chất, hiệu quả. Một yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc
tăng cường vị thế chiến lược của Việt Nam là sự kịp thời thay đổi tư duy
đối ngoại, dần chuyển biến vị thế của Việt Nam từ “tuân thủ luật chơi”
sang góp phần “đề ra luật chơi”, từ “tham gia” sang đóng góp “định hình
các quy tắc, luật lệ mới”(19), từ đó phối hợp hành động với
các đối tác chiến lược nhằm khai thác hiệu quả những giá trị mà khuôn
khổ đối tác chiến lược có thể mang lại cho Việt Nam.
Thứ hai,
thúc đẩy đan xen và gắn kết lợi ích của Việt Nam với các nước đối tác
chiến lược. Một trong những động lực thúc đẩy các quốc gia hợp tác với
nhau là nhằm đạt được mục tiêu lợi ích quốc gia - dân tộc. Do vậy, “lợi
ích giữa các chủ thể trong một mối quan hệ càng gắn kết thì quan hệ giữa
họ càng sâu sắc và ngược lại, không có đồng lợi ích, quan hệ khó phát
triển hoặc khó duy trì lâu dài”(20). Trong khuôn khổ đối tác
chiến lược của Việt Nam với các nước, có thể xác định nhiệm vụ đan xen
và gắn kết lợi ích trên bình diện song phương và đa phương. Xét trên
bình diện song phương, cần đẩy mạnh đan xen lợi ích trên tất cả các lĩnh
vực hợp tác, từ chính trị - ngoại giao, quốc phòng - an ninh, kinh tế,
thương mại - đầu tư, cho đến khoa học - kỹ thuật, giáo dục - đào tạo,…
nhằm tạo sự phát triển đồng đều giữa các lĩnh vực hợp tác. Thực tế triển
khai các quan hệ đối tác chiến lược của Việt Nam hiện nay, thậm chí
trong cả quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, cho thấy có sự tồn tại
tình trạng mất cân đối mức độ phát triển giữa các lĩnh vực hợp tác.
Trong quan hệ chiến lược toàn diện Việt Nam - Ấn Độ, hợp tác trong lĩnh
vực kinh tế, thương mại, đầu tư còn một số hạn chế. Các đối tác chiến
lược châu Âu của Việt Nam (Nga, Tây Ban Nha, Anh, Đức, Italy, Pháp)
không nằm trong danh sách 5 quốc gia có tổng số vốn đầu tư lớn nhất vào
Việt Nam tính đến tháng 10/2022(21). Với Nhật Bản, mặc dù
quan hệ giữa hai nước trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư ghi
nhận nhiều bước phát triển mạnh mẽ, song kết quả đạt được trong lĩnh vực
quốc phòng - an ninh chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước. Do
vậy, Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với từng đối tác nhằm xây dựng kế
hoạch, cơ chế và biện pháp củng cố các lĩnh vực hợp tác chưa thực sự
hiệu quả cũng như chưa tương xứng với mức độ quan hệ đối tác chiến lược
giữa hai bên. Xét trên bình diện đa phương, việc đan xen và gắn kết lợi
ích giữa Việt Nam với các đối tác chiến lược đòi hỏi hai bên cần ủng hộ
lập trường, quan điểm của nhau, phối hợp cùng hành động, đề xuất các
sáng kiến, giải pháp giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu, phù hợp
với lợi ích, nguyện vọng của từng bên.
Thứ ba,
nỗ lực tăng cường lòng tin chiến lược và xử lý đúng mực những mối quan
tâm, lợi ích chính đáng của các đối tác. Bài phát biểu “Xây dựng lòng
tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á - Thái Bình
Dương”(22) được Việt Nam chia sẻ lần đầu tiên tại Đối thoại
Shangri-La lần thứ 12 (năm 2013) đã trở thành thông điệp quan trọng về
chính sách quốc phòng - an ninh và đối ngoại hiện nay của Việt Nam. Do
vậy có thể thấy, lòng tin, đặc biệt lòng tin chiến lược, là nền tảng
quan trọng giúp Việt Nam xử lý hài hòa, “đẩy mạnh đưa quan hệ với các
đối tác, đặc biệt là đối tác quan trọng, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền
vững, tăng cường đan xen lợi ích; xử lý linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả
mối quan hệ với các nước lớn”(23). Trong từng khuôn khổ đối
tác chiến lược, cần đánh giá kịp thời mức độ tin cậy giữa Việt Nam và
các đối tác theo các cấp độ để từ đó xây dựng kế hoạch hành động cụ thể
nhằm giải tỏa nghi ngờ, gia tăng hiểu biết và thúc đẩy lòng tin. Tuy
nhiên, cần nhấn mạnh rằng, mức độ tin cậy không phải là bất biến, thậm
chí có thể chuyển biến rất nhanh chóng giữa các cấp độ, xuất phát từ
những khác biệt trong tính toán lợi ích quốc gia - dân tộc và những khác
biệt trong hệ giá trị về văn hóa, bản sắc. Đặc điểm này làm cho quá
trình thúc đẩy lòng tin chiến lược càng trở nên khó khăn, đòi hỏi nuôi
dưỡng và vun đắp lòng tin chiến lược cần được duy trì thường xuyên,
thông qua các hành động cụ thể, thực chất và chân thành. Mức độ minh
bạch trong việc xây dựng và triển khai các chính sách đối nội và đối
ngoại cũng đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy lòng tin chiến lược.
Thứ tư,
tiếp tục nâng cao hiệu quả các cơ chế và phạm vi hợp tác trong từng
khuôn khổ đối tác chiến lược của Việt Nam với các nước. Đối với quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc, khuôn khổ đối tác chiến lược giữa hai nước có số
lượng cơ chế hợp tác rất phong phú, góp phần quan trọng trong việc xử lý
các vấn đề phát sinh, trao đổi về các giải pháp thúc đẩy quan hệ. Tuy
vậy, hai bên cần tiếp tục phối hợp để gia tăng mức độ tin cậy chính trị,
giải quyết nhanh chóng và kịp thời những vấn đề nảy sinh, thậm chí là
khó lường trong các lĩnh vực hợp tác. Trong khuôn khổ đối tác chiến lược
với các đối tác khác, cân nhắc thiết lập thêm các cơ chế chuyên về từng
lĩnh vực cụ thể để việc trao đổi và giải quyết các vấn đề có thể được
thực hiện nhanh, kịp thời và hiệu quả hơn, trên cơ sở lựa chọn các lĩnh
vực ưu tiên và phù hợp với thực lực cũng như lợi ích của từng bên.
Tóm
lại, quan hệ đối tác chiến lược đã được các quốc gia thiết lập và thúc
đẩy nhằm đạt được mục tiêu về an ninh, phát triển và ảnh hưởng thông qua
các cơ chế, biện pháp phối hợp trên các lĩnh vực khác nhau. Nghiên cứu
về quan hệ đối tác chiến lược của Trung Quốc, Đức và Việt Nam cho thấy
sự đa dạng về nội hàm của khuôn khổ đối tác chiến lược với mức độ hiệu
quả khác nhau. Tuy nhiên, thúc đẩy và làm sâu sắc các quan hệ đối tác
chiến lược là quá trình mà hai bên cùng phải hành động, phù hợp với lợi
ích và nguyện vọng của mỗi bên. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về các
giải pháp thúc đẩy những khuôn khổ này trong thời gian tới có ý nghĩa
hết sức quan trọng./.
NGUYỄN THỊ THÌN
Học viện Ngoại giao
___________________
(1) (4) Hoàng Khắc Nam: Giáo trình nhập môn Quan hệ quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016, tr.29, 32.
(2) Hans J. Morgenthau: Sáu nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực chính trị, in trong sách "Lý luận Quan hệ quốc tế", Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007, tr.38.
(3) (5) Hoàng Khắc Nam: Chủ nghĩa tự do trong quan hệ quốc tế: Những luận điểm chính và sự đóng góp, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1/2013, tr.17-26.
(6) (7) (8) Nguyễn Vũ Tùng - Hoàng Anh Tuấn: Quan hệ đối tác chiến lược trong quan hệ quốc tế: Từ lý thuyết đến thực tiễn, Học viện Quan hệ quốc tế, 2006, tr. 24, 27, 23.
(9) Nguyễn Xuân Thiên: Lý thuyết lợi thế so sánh và gợi ý đối với Việt Nam trong bối cảnh phát triển hiện nay, in trong sách "Các lý thuyết kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và thực tiễn Việt Nam", Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr. 214-215.
(10)
Sean Kay: What Is a Strategic Partnership? (Tạm dịch: Đối tác chiến
lược là gì), https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/10758216.2000.11655882.
(11)
Filippo Bonim: Strategic partnerships and China’s diplomacy in Europe:
Insights from Italy (Tạm dịch: Quan hệ đối tác chiến lược và chính
sách ngoại giao của Trung Quốc ở châu Âu: Góc nhìn từ Italy), https://journals.sagepub.com/doi/epub/10.1177/13691481221127571.
(12)
Feng Zhongping - Huang Jing: China’s strategic partnership diplomacy:
engaging with a changing world (Tạm dịch: Chiến lược ngoại giao của
Trung Quốc: tham gia với một thế giới đang thay đổi), https://www.files.ethz.ch/isn/181324/China%E2%80%99s%20strategic%20partnership%20diplomacy_%20engaging%20with%20a%20changing%20world%20.pdf.
(13)
(14) Amrita Narlikar - Johannes Plagemann: Making the Most of
Germany’s Strategic Partnerships: A Five - Point Proposal (Tạm dịch:
Tận dụng tối đa quan hệ đối tác chiến lược của Đức: Đề xuất năm điểm),
https://www.giga-hamburg.de/en/publications/giga-focus/making-the-most-of-germany-s-strategic-partnerships-a-five-point-proposal.
(15)
Norbert Röttgen: quoted in Deutscher Bundestag Stenografischer Bericht
(Tạm dịch: Báo cáo viết tắt của Cộng hòa Liên bang Đức), Berlin, ngày
29/5/2020, Minutes of plenary proceedings 19/164, tr.20424.
(16)
Angela Merkel: quoted in Deutscher Bundestag Stenografischer Bericht
(Báo cáo viết tắt của Cộng hòa Liên bang Đức), Berlin, ngày 21/3/2019, Minutes of plenary proceedings 19/89, tr.10482.
(17)
Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược theo lĩnh vực với Hà Lan
(quản lý nước và thích ứng với biến đổi khí hậu, nông nghiệp và an ninh
lương thực), Đan Mạch (biến đổi khí hậu, năng lượng, môi trường và tăng
trưởng xanh) và Bỉ (nông nghiệp).
(18) (23) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.29-30, 153.
(19) Hoa Nguyễn: Vị thế Việt Nam trong cục diện mới của khu vực, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-binh-luan/-/asset_publisher/DLIYi5AJyFzY/content/vi-the-viet-nam-trong-cuc-dien-moi-cua-khu-vuc.
(20)
Đặng Đình Quý - Nguyễn Vũ Tùng: Tiếp cận vấn đề đưa các mối quan hệ
đối ngoại của Việt Nam đi vào chiều sâu, in trong sách "Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới", Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr. 290-291.
(21) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: 10 quốc gia/vùng lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, https://infographics.vn/interactive-10-quoc-gia-vung-lanh-tho-dau-tu-lon-nhat-vao-viet-nam/105576.vna.
(22)
Phát biểu dẫn đề của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Đối thoại
Shangri-La lần thứ 12 (Singapore): Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa
bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á - Thái Bình Dương”, https://nhandan.vn/xay-dung-long-tin-chien-luoc-vi-hoa-binh-hop-tac-thinh-vuong-cua-chau-a-thai-binh-duong-post176977.html.
(Nguồn: TC Cộng sản)