Thứ Bảy, 26/10/2024
Thành phố Hồ Chí Minh
Thứ Ba, 12/6/2018 10:42'(GMT+7)

Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết việc làm ở Thành phố Hồ Chí Minh


Giải quyết công ăn việc làm luôn là bài toán khó với các địa phương.

Trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng vai trò của chính sách giải quyết việc làm, coi đây là một trong những chính sách đảm bảo an sinh xã hội quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời đã được nâng lên tầm cao mới về phương diện lý luận và thực tiễn, đó là nội dung xuyên suốt trong chiến lược phát kinh tế - xã hội của Việt Nam nhằm đảm bảo công bằng xã hội, phát triển bền vững. 

1. Thực trạng thực hiện quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết việc làm ở TP.HCM

TP.HCM là một trung tâm lớn về kinh tế văn hóa, khoa học – công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, có vị trí chính trị quan trọng trong cả nước với diện tích đất tự nhiên chiếm 6,36% diện tích toàn quốc, chiếm khoảng 8,9 % dân số cả nước.  Nhìn một cách tổng thể, với vị trí địa lý - tự nhiên của TP.HCM là vùng đất hội tụ những tiềm năng, lợi thế đã có tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa nói chung và thực hiện gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết việc làm nói riêng đạt được những thành tựu to lớn, đảm bao an sinh xã hội cho mọi người lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể: 

TP.HCM với số người trong độ tuổi lao động (năm 2016) là 4.335.659 người, chiếm 51,3% tổng dân số; lực lượng lao động trực tiếp khoảng 4.223.996 người chiếm 97,4% so lực lượng lao động và chiếm 50% so với tổng dân số . Với lực lượng lao động của Thành phố dồi dào, khá trẻ là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu các thành tựu khoa học - công nghệ và linh hoạt trong việc chuyển đổi nghề nghiệp. Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Thành phố đã khơi dậy mọi tiềm năng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các KCN - KCX phù hợp với trình độ phát triển của địa phương dẫn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ổn định ở mức hai con số. Điều này đã tác động tích cực đến chính sách giải quyết việc làm ở TP.HCM, thể hiện:  

Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở TP.HCM tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động. 

Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế được Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX xác định là một trong sáu chương trình đột phá  và tiếp tục tái khẳng định trong Đại hội Đảng bộ lần thứ X của Thành phố. Cụ thể hóa chủ trương Thành phố đã ban hành Quyết định số 24/2011/QĐ-UBDN về Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 - 2015; Chương trình hành động số 11-CTr/TU ngày 16/03/2011 của Thành ủy thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX về Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế Thành phố giai đoạn 2011-2015. 

Qua thời gian triển khai, chương trình đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố theo hướng hiện đại (dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp) tăng tỷ trọng các sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và trình độ công nghệ cao góp phần giải quyết việc làm bền vững, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, góp phần vào thành công của kinh tế Việt Nam trong quá trình đổi mới. Cụ thể: 1) Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hiện đại tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động. 

Thời gian qua, Thành phố tập trung theo hướng tăng dần các ngành có giá trị gia tăng: Ngành dịch vụ tập trung vào 9 nhóm ngành thế mạnh (tài chính - tín dụng - ngân hàng - bảo hiểm; thương mại; du lịch; vận tải, kho bãi, dich vụ cảng; bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin - truyền thông; kinh doanh tài sản - bất động sản; dịch vụ thông tin tư vấn, khoa học - công nghệ; du lịch; y tế và giáo dục - đào tạo) và giá trị tăng thêm chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (năm 2017 đạt 58,3%). Ngành công nghiệp - xây dựng tập trung vào 4 những ngành công nghiệp mũi nhọn (cơ khí chế tạo, điện tử, hóa chất - cao su - nhựa và chế biến tinh lương thực thực phẩm) với giá trị tăng thêm chiếm tỷ trọng trong GDP (năm 2017 đạt 24,8%). Ngành nông nghiệp luôn duy trì tỷ trọng gần 1,0% (từ năm 2011 đến nay) và phát triển theo hướng nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững. Như vậy, về cơ bản “cơ cấu kinh tế ở Thành phố chuyển dịch tích cực, đúng định hướng” , đang hình thành một hình thái với chất lượng cao, trong đó tỷ lệ dịch vụ - công nghiệp trong cơ cấu kinh tế ngày càng cao, tỷ lệ nông nghiệp giảm dần.
 

Một trong những chung cư cao cấp ở thành phố Hồ Chí Minh

Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở TP.HCM tất yếu làm tăng tỷ trọng lao động trong các ngành dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, giảm dần tỷ trọng lao động ở khu vực nông thôn. Giai đoạn 2000 - 2009, tỷ trọng lực lượng lao động ngành dịch vụ từ 52,1% tăng lên 53,7%; ngành công nghiệp - xây dựng từ 41,5% tăng lên 43,5%; nông, lâm, thủy sản từ 6,4% giảm còn 2,8%  và đến năm 2017 tỷ trọng lao động ngành dịch vụ chiếm 64,63%; công nghiệp - xây dựng chiếm 33,01% và nông, lâm, thủy sản chiếm 2,36% , góp phần tạo ra việc làm có năng suất, hiệu quả và tạo nguồn lực vật chất cho người dân tham gia chính sách an sinh xã hội theo nguyên tắc đóng - hưởng và Nhà nước có nguồn thu ngân sách để thực hiện chính sách an sinh xã hội theo nguyên tắc trợ giúp bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội. (2) 

Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế cũng tác động đến chính sách giải quyết việc làm ở TP.HCM. Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế ở Thành phố theo hướng giảm tỷ trọng kinh tế nhà nước và tăng tỷ trọng kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế FDI. Để phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, Thành phố đã tiên phong trong việc đề xuất, hoàn thiện cơ sở pháp lý, xác định rõ vai trò của chính quyền đối với các thành phần kinh tế, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế, từ đó tạo tiền đề thực hiện giải quyết việc làm cho người dân Thành phố. 
Đối với Thành phần kinh tế nhà nước tỷ trọng trong GDP giảm dần từ 43,0% GDP (2000) xuống còn 14,0% (năm 2016) và 13,7% GDP (năm 2016). Xu hướng này phù hợp với chủ trương của cả nước trong việc cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước nhằm đảm bảo tính phù hợp và hiệu quả trong nền kinh tế. Nếu năm 2000 khu vực kinh tế ngoài nhà nước đóng góp vào GDP là 37,6% giải quyết việc làm cho 639.626 người (chiếm 40,9%), thì đến năm 2015 tổng số doanh nghiệp đang hoạt động có 145.318 đơn vị, đóng góp 69,8% cơ cấu GDP, giải quyết việc làm cho 1.917.974 người số lao động đang làm việc trên địa bàn (chiếm 69,7%). 

Đối với thành phần kinh tế FDI, với tiềm lực về vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý… đã và đang góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Tỷ trọng đóng góp thành phần kinh tế FDI vào GDP ngày càng tăng qua các năm (năm 2013: 16,2%; năm 2015: 16,9% và năm 2016 là 17,0%), góp phần quan trọng vào tăng trưởng và giải quyết việc làm cho 631.990 lao động (chiếm 23,% lực lượng lao động năm) của kinh tế Thành phố. Tính cuối 2017 trên địa bàn Thành phố có 7.373 dự án đầu tư FDI còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư kể cả cấp mới và tổng số vốn là 44, 24 tỷ USD.
 
Quan trọng hơn, khu vực FDI đã góp phần nâng cao trình độ lao động ở Thành phố thông qua chuyển giao khoa học - công nghệ tiên tiến, thu hút chuyên gia nước ngoài có trình độ cao, có kinh nghiệm trong công tác quản lý (số lao động nước ngoài có trình độ chuyên môn từ cao đẳng, đại học trở lên là 12.330 người)   , từ đó tạo việc làm có năng suất, thu nhập cao, bảo đảm an sinh xã hội cho mọi người dân. Có thể thấy, sự tác động của tăng trưởng kinh tế đối với chính sách giải quyết việc làm ở TP.HCM đã khẳng định đường lối chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch các thành phần kinh tế đúng đắn phù hợp với yêu cầu khách quan, đã giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm bền vững ở Thành phố. 

Hai là, xây dựng và phát triển các Khu chế xuất, khu công nghiệp (KCX – KCN) góp phần tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm. 

Thời gian qua, KCX - KCN ở Thành phố là một trong những công cụ thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế với giải quyết việc làm cho một lượng khá lớn người lao động. Hiện nay, Thành phố đã có 18 KCX - KCN tập trung đã thu hút 536 giấy phép đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư 64,86 triệu USD; dẫn đầu thu hút các nhà đầu tư trong nước với 833 dự án, tổng số vốn tổng vốn đầu tư 4.096,052 tỷ USD và tạo ra kim ngạch xuất khẩu hàng năm khoảng 4,4 triệu USD (năm 2016). 

Chỉ tính riêng kim ngạch xuất khẩu của 3 khu chế xuất (Tân Thuận, Linh Trung I, Linh Trung II) đạt trên 22,34 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu tăng liên tục, từ 405 triệu USD năm 1998 lên hơn 812 triệu USD năm 2001, 3.644 tỷ USD  năm 2012 và 3.925 tỷ USD năm 2014” . Việc thu hút vốn đầu tư vào KCX - KCN không chỉ tăng nguồn ngoại tệ đầu tư trên địa bàn mà còn đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân Thành phố. 

Đặc biệt, từ môi trường này, “đã tạo ra 5.000 kỹ thuật viên và nhân viên quản lý có trình độ đại học, cao đẳng, đủ khả năng thay thế các chuyên gia nước ngoài; cùng với 15.000 công nhân trung cấp sử dụng thành thạo thiết bị hiện đại và 30.000 công nhân lành nghề có trình độ ngang bằng tầm cỡ quốc tế”  , từ đó đã nâng cao trình độ cho đội ngũ lao động và trình độ quản lý tiên tiến ở Thành phố từng bước hội nhập quốc tế và đi vào nền kinh tế tri thức. Bên cạnh đó, Thành phố luôn quan tâm, huy động các nguồn lực thực hiện chính sách an sinh xã hội cho công nhân lao động tại KCX - KCN như khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, xây dựng mới nhiều nhà trẻ, trường mẫu giáo, nhà lưu trú công nhân; khu lưu trú văn hóa; khuyến khích, vận động chủ nhà trọ thực hiện giá cho thuê hợp lý. Với vai trò, vị trí các KCX - KCN mang lại, có thể khẳng định, KCX - KCN là tiền đề cho sự phát triển trong chiến lược công nghiệp hóa và hiện đại hóa, trong tiến trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế của Thành phố ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai. 


Thành phố ngày càng phát triển với những đô thị hiện đại

Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các KCX - KCN ở TP.HCM đã lan tỏa đến mọi người dân Thành phố, gắn tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết việc làm, từ đó phát huy tính năng động của người lao động theo đúng ngành nghề, sở trường và khả năng góp phần tích vào giải quyết việc làm bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống hiện tại và tương lai cho người lao động ở Thành phố. 

2. Thực trạng sự tác động của chính sách giải quyết việc làm đối với tăng trưởng kinh tế ở TP.HCM.

Đến lượt nó, chính sách giải quyết việc làm trở thành mục tiêu, động lực của tăng trưởng kinh tế, thể hiện:

Một là, chính sách giải quyết việc làm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, yếu tố hàng đầu của lực lượng sản xuất.

Việc triển khai chính sách giải quyết việc làm phù hợp với trình độ của tăng trưởng kinh tế đã góp phần sản xuất và tái sản xuất nguồn nhân lực trên phương diện thể lực và trí lực, hai phương diện gắn liền với con người - thực thể sinh học - xã hội. Chính sách giải quyết việc làm tác động đến tăng trưởng kinh tế góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được phản ánh thông qua nhiều phương diện, nhiều khía cạnh, song ở đó giáo dục - đào tạo đóng vai trò cung cấp cho xã hội nguồn lực lao động có tri thức, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, giàu tính nhân văn, nhân ái, có tinh thần trách nhiệm… yếu tố quyết định sự thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 

Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cho thấy, nếu không có chính sách giáo dục - đào tạo đúng đắn thì không thể tạo ra nguồn nhân lực có trình độ khoa học - công nghệ và lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm thì không thể đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định. Thậm chí nếu thiếu nguồn nhân lực chất lượng sẽ ảnh hướng xấu đến tăng trưởng kinh tế, gây bất ổn xã hội. Vì lẽ đó, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở TP.HCM nói riêng, Việt Nam nói chung luôn quán triệt quan điểm đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho sự phát triển không chỉ vì thế hệ hôm nay, mà còn vì thế hệ mai sau. 

Trong những năm qua, giáo dục - đào tạo ở TP.HCM thể hiện nổi bật ở sự phát triển về quy mô, chất lượng, sự đa dạng các loại hình đào tạo, trở thành trung tâm giáo dục - đào tạo lớn của khu vực phía Nam và cả nước. Sự phát triển của giáo dục các bậc mầm non, mẫu giáo đến phổ thông (tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông) của Thành phố đã góp phần rất quan trọng trong việc nâng cao mặt bằng dân trí của nhân dân nói chung, lực lượng lao động nói riêng trên địa bàn Thành phố, cụ thể: Thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở (năm 2002) và được công nhận đạt chuẩn phổ cập bậc trung học (năm 2008); tỷ lệ biết chữ ở độ tuổi 15 - 35 tuổi đạt 99,98%, độ tuổi 36 trở lên đạt 99,69% ; tỷ lệ tốt nghiệp bổ túc hằng năm đều cao hơn bình quân cả nước. 

TP.HCM còn là nơi tập trung hơn 80 trường đại học, cao đẳng, trung cấp, cùng với các viện nghiên cứu, mỗi năm cung cấp gần trăm nghìn lao động chất lượng cao. Riêng giai đoạn 2014 - 2015 quy mô đào tạo nghề tăng 1,5 lần, đào tạo bậc đại học, cao đẳng tăng gấp 1,4 lần. Thành phố luôn có những chủ trương phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu thị trường lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chủ động liên kết hợp tác quốc tế để tiếp cận với giáo dục tiên tiến thế giới. Đội ngũ giảng viên không ngừng bồi dưỡng, nâng cao trình độ, cập nhật chương trình đào tạo tiên tiến gắn lý thuyết với thực tiễn; tích cực nghiên cứu khoa học; hệ thống các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn nỗ lực phấn đấu đạt chuẩn cơ bản theo quy định, tiến đến chuẩn giáo dục - đào tạo quốc tế. Số lượng sinh viên theo học và tốt nghiệp cao đẳng đại học năm sau cao hơn năm trước, góp phần tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% (năm 2005) lên 72,33% (năm 2015) ,  đáp ứng nhu cầu nhân lực theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở TP.HCM và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Lao động với chất lượng cao đồng nghĩa với tạo việc làm bền vững, thu nhập ổn định, đảm bảo an sinh xã hội. Khi lợi ích từ tăng trưởng kinh tế đến với mọi người dân, gồm cả nhóm người trước kia bị gạt ra ngoài lề xã hội, sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Hai là, chính sách giải quyết việc làm góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp. Việc làm tăng đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp giảm. Nếu trước đổi mới, trong một khoảng thời gian hơn 70% công nhân sản xuất quốc doanh phải nghỉ việc ăn lương và hơn một triệu lao động thất nghiệp, thì trong thời kỳ đổi mới, với chủ trương gắn tăng trưởng kinh tế với chính sách an sinh xã hội cho người dân Thành phố đã có những chương trình hỗ trợ giải quyết việc làm cho người nghèo, người thất nghiệp, tăng cường cơ hội việc làm cho lao động khu vực phi chính thức, cho vay vốn đối với lao động đi làm việc nước ngoài… Những chính sách hỗ trợ tích cực của Nhà nước, công tác giải quyết việc làm ở Thành phố chuyển biến tích cực đã góp phần giảm thiểu được số lượng lao động thất nghiệp. Giai đoạn 2011 – 2015, Thành phố tạo 285.938 lượt, tạo khoảng 615.400 việc làm mới cho người lao động, trung bình 123.000 chỗ/năm.

Đồng thời, Thành phố còn chú trọng phát triển hệ thống thông tin nhu cầu nguồn nhân lực thông qua các sàn giao dịch việc làm, ngày hội việc, hoạt động tư vấn, hướng nghiệp, cung cấp một số kỹ năng mềm cho người lao động trong quá trình xin việc; huy động các nguồn lực xã hội tham gia dạy nghề theo hướng đào tạo phù hợp với nhu cầu thị trường sức lao động, tập trung vào các ngành nghề vốn là thế mạnh góp phần nâng cao nguồn nhân lực qua đào tạo; công tác dự báo nhu cầu lao động và phát triển mạng lưới thông tin thị trường lao động tại các đơn vị giới thiệu việc làm, cơ sở đào tạo, phường - xã, thị trấn và doanh nghiệp được chú trọng đáp ứng kịp thời nhu cầu tham gia vào thị trường lao động.

Nhìn chung, chính sách giải quyết việc làm tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở TP.HCM không chỉ góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao mà còn góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp giảm qua các năm (6,48% (2000), xuống 5,9% (2005) và 4,5% (2015)  , nhưng tỷ lệ này cao gấp gần 2 lần so với cả nước (2,33% năm 2015 . Đây cũng là điều tất yếu, bởi TP.HCM là trung tâm kinh tế của cả nước nên quá trình cạnh tranh và chọn lọc lực lượng lao động diễn ra gây gắt trong quá trình phát triển. Song với quyết tâm chính trị, sự năng động, chính quyền Thành phố hiện thực hoá chính sách giải quyết việc làm phù hợp với đô thị đặc biệt, từng bước đảm bảo an sinh xã hội cho người dân, giảm dần sự tách biệt xã hội. 

Từ những phân tích trên có thể khẳng định, TP.HCM đã tích cực xây dựng các chương trình, kế hoạch, khơi dạy mọi tiềm năng, nguồn lực để giải quyết mối quan hệ tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết việc làm bền vững, góp phần thúc ổn định kinh tế - xã hội. 

Sở dĩ Thành phố đạt được những thành tựu như vậy là do, Thành phố đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo những chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần phù hợp với xu thế khách quan của thời đại, từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp “đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh trạnh”, và “chủ động tái cấu trúc kinh tế Thành phố, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, từ chủ yếu phát triển dựa vào vốn đầu tư, sử dụng nhiều lao động sang phát trển các yếu tố năng suất tổng hợp, tiến bộ khoa học - công nghệ”  ; cùng với chính sách hỗ trợ người lao động linh hoạt tham gia vào thị trường lao động, đáp ứng nhu cầu nhà tuyển dụng góp phần cải thiện thu nhập, tạo môi trường thuận lợi cho con người phát triển toàn diện. 

Mặt khác, con người Thành phố kiên cường, sáng tạo, mạnh dạn thể nghiệm nhiều cơ chế, chính sách mới để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, phát triển các loại thị trường, thu hút mạnh các nguồn lực gắn kết tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm cho người lao động, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Ngoài ra, TP.HCM thường xuyên khảo sát, nắm bắt, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật gắn kết tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết việc làm phù hợp với đặc thù của Thành phố. 

Tuy nhiên, vẫn còn một số thách thức:

Một là, các chính sách, giải pháp hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố vừa qua chưa đủ mạnh, chưa tạo được bước đột phá dẫn đến “chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành kinh tế còn chậm, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng còn thấp, công nghiệp nặng tính gia công”  ; tiềm năng, lợi thế của Thành phố chưa được huy động, khai thác đầy đủ; chưa có giải pháp đột phá hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế; cơ cấu phân bổ lao động chưa hợp lý, có ngành thì thừa, có ngành thì thiếu. Tình trạng này đã trở thành điểm nghẽn cho việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết việc làm ở Thành phố; chưa chú trọng vào duy trì việc làm có năng suất cao, chính sách tiền lương và thu nhập bất hợp lý. Mặc dù lao động qua đào tạo nghề ở Thành phố hiện nay chiếm khoảng 72% (năm 2015), song tỷ lệ lao động qua đào tạo( ) chỉ chiếm 34%, thấp hơn nhiều so với các tỉnh thành khác trong cả nước (Hà Nội, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 39,9%, Đà Nẵng là 41,6%). 

Chất lượng nguồn nhân lực ở Thành phố ngày càng được cải thiện, nhưng tỷ lệ lao động không có chuyên môn chiếm tỷ lệ báo động là 66,6%, đã trở thành “nút thắt” đối với doanh nghiệp trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và tăng năng suất lao động trong tất cả các ngành của nền kinh tế. 

Đặc biệt, Thành phố đang tồn tại một nghịch lí là mặc dù nguồn nhân lực dồi dào, nhu cầu việc làm lớn nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn rơi vào tình trạng khan hiếm lao động, đặc biệt là đội ngũ giám đốc điều hành, quản trị, chuyên gia… trên mọi lĩnh vực. 

Theo Ông Trần Anh Tuấn - Phó Giám đốc Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP.HCM cho rằng, tồn tại lớn nhất trong vấn đề đào tạo hiện nay là cơ cấu đại học, cơ cấu trung cấp đang có khập khiễng giữa đào tạo và nhu cầu: bậc đại học đào tạo số lượng nhiều hơn so với nhu cầu, lực lượng công nhân giỏi cần nhiều thì lại đào tạo ít hơn. Theo khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động “chỉ có 80% sinh viên, học viên tốt nghiệp tại TP.HCM tìm được việc làm, 20% không tìm được việc. Trong số tìm được việc chỉ có 50% là có việc làm phù hợp với năng lực, sở thích”. 

Có thể thấy, lực lượng lao động không tìm được việc làm hoặc làm việc không phù hợp với chuyên ngành đào tạo chiếm tỷ lệ cao, cho dù cầu lao động ở TP.HCM luôn tăng lên hằng năm. Đánh giá vấn đề này, Đảng bộ Thành phố thẳng thắn nhận định: “chất lượng, cơ cấu đào tạo nghề chưa theo kịp nhu cầu, việc đào tạo đội ngũ chuyên gia, lao động kỹ thuật cao còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập hiện nay. 

Hai là, công tác cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất cập. Các hoạt động liên doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế chưa đồng bộ. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng về số lượng nhưng quy mô vừa và nhỏ (quy mô lao động dưới 5 người chiến 60,8%; từ 5000 lao động trở lên chiếm 0,2%, sức cạnh tranh yếu, công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất và chất lượng hàng hóa không cao. Doanh nghiệp FDI, chưa tập trung vào những lĩnh vực công nghệ cao, chủ yếu là gia công, lắp ráp và mức độ liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước chưa thực sự hiệu quả. 

Ba là, quản lý Nhà nước còn hạn chế bởi hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, một số cơ chế chính sách chậm sửa đổi từ trung ương, các văn bản dưới luật ban hành chưa kịp thời, chồng chéo, mâu thuẫn khiến cho việc chỉ đạo của Thành phố còn bị động và các nhà đầu tư trong và ngoài nước chưa yên tâm. 

Bốn là, việc phát triển KCX - KCN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại gắn với giải quyết việc làm cho người lao động, song các dự án đầu tư nước ngoài vào KCX - KCN sản xuất gia công là chính, thâm dụng nhiều lao động, giá trị gia tăng sản phẩm thấp; mức độ chuyên nghiệp và đáp ứng nhu cầu các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tác phong làm việc, ngoại ngữ,… Cùng với đó, người di cư làm việc trong các KCX - KCN chiếm trên 60% lực lượng lao động, thường không đăng ký hộ khẩu, điều kiện làm việc kém an toàn với mức lương thấp, nhà ở tạm bợ và chi phí cuộc sống cao tác động trực tiếp đến an sinh xã hội và phúc lợi của họ. 

Nguyên nhân của những hạn chế trên là do: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa hoàn chỉnh, chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước chưa nhất quán, còn mang tính ngắn hạn, thiếu đồng bộ, kịp thời với quá trình đô thị hóa của Thành phố. Với lợi thế về tạo việc làm và thu nhập, Thành phố trở thành điểm đến hấp dẫn cho dân cư các địa phương trong cả nước, mức độ tăng dân cơ học cao (bình quân 3,5%/năm) dẫn đến tình trạng quá tải trong việc giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động. Tác động của kinh tế thị trường cùng với khủng hoảng kinh tế thế giới đã ảnh hưởng đến việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết việc làm cho người lao động. Những bất cập trong đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cũng góp phần làm gia tăng tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm. 

Ngoài ra, Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM đã có nhiều cố gắng trong công tác dự báo, phân tích nhu cầu lao động của Thành phố, song những hạn chế trong việc dự báo cụ thể, chính xác về số lượng ngành nghề, trình độ phân tích nhu cầu nhân lực của nhà tuyển dụng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn, dẫn đến công tác đào tạo chưa thật sự gắn với yêu cầu của thị trường lao động. Mặc dù, còn những hạn chế nhất định, nhưng việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết việc làm đã có tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần đưa TP.HCM trở thành trung tâm phát triển năng động của cả nước. 

3. Một số giải pháp mang tính định hướng thực hiện tốt quan hệ TTKT với chính sách giải quyết việc làm ở TP.HCM thời gian tới. 

Thời gian qua TP.HCM đã thực hiện tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động. Song nền tăng trưởng kinh tế chủ yếu phát triển các ngành nghề sử dụng nhiều lao động, năng suất thấp; chú trọng vào giải quyết việc làm theo chiều rộng, chưa chú trọng vào giải quyết việc làm bền vững dẫn đến tình trạng giãn việc, thất nghiệp đã ảnh hưởng đến an sinh xã hội của người lao động. Bên cạnh đó, dưới sự tác động của cuộc CMCN 4.0 một số ngành nghề cũ mất đi và một số ngành nghề mới ra đời trong lĩnh vực kỹ thuật số như lập trình, dữ liệu vì thế để chủ động thích ứng và hóa giải thách thức thì xác định lại mô hình đào tạo nghề là hết sức cần thiết. Chính vì vậy, để duy trì và phát huy tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết việc làm ở Thành phố,  chúng tôi kiến nghị một số giải pháp sau:

Một là, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng toàn diện nguồn nhân lực. TP.HCM, nơi quy tụ nguồn nhân lực dồi dào, có kiến thức, có tay nghề, có kinh nghiệm quản lý với tư duy năng động sáng tạo, ham học hỏi, là lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, Thành phố có hơn 80 trường đại học, cao đẳng với gần một triệu sinh viên, trở thành trung tâm giáo dục đại học lớn cả nước. 

Thực tiễn cho thấy, giáo dục ở Thành phố đã góp phần quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đắc lực cho quá trình xây dựng và phát triển của Thành phố, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song, chất lượng, cơ cấu đào tạo nghề chưa theo kịp nhu cầu, việc đào tạo đội ngũ chuyên gia, lao động kỹ thuật cao còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là băn khoăn, một trăn trở và là một áp lực của Thành phố trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo.

Từ thực tiễn đó, một trong những giải pháp quan trọng trong thực hiện tốt chính sách giảm nghèo là tiếp tục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở TP.HCM. Điều này cũng đã được Đại hội Đảng bộ TP.HCM lần thứ X tiếp tục coi là một trong bảy chương trình đột phá nhằm thực hiện mục tiêu phát triển của Thành phố, “vừa nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chung vừa chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học - công nghệ; tập trung cho những ngành, những lĩnh vực có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao, có vai trò quyết định, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội Thành phố” . 

Chính vì vậy, thời gian tới, TP.HCM cần phải tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện nội dung, phương pháp đào tạo theo yêu cầu phát triển của Thành phố, từng bước tạo ra nguồn nhân lực phát triển toàn diện về tri thức, năng lực, đạo đức nghề nghiệp cao có ý nghĩa then chốt trong hệ thống các giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách an sinh xã hội. Cụ thể: Đối với cấp học phổ thông, bảo đảm cho mọi người dân trong độ tuổi đi học được đến trường; tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh phù hợp với đặc điểm kinh tế của Thành phố; Đối với giáo dục đại học, Thành phố nên chuyển đổi mạnh mẽ những ngành mà thị trường cần và hướng tới đào tạo những ngành mà thị trường sẽ cần (trong đó, tập trung nguồn nhân lực cho những ngành có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao, đảm bảo nhu cầu lao động co chất lượng cao cho 9 ngành dịch vụ, 4 ngành công nghiệp và xuất khẩu lao động). 

Theo mô hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp là yêu cầu được đặt ra, đồng thời đẩy mạnh liên kết các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp để chia sẻ các nguồn lực chung, cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực. Quan trọng hơn là rút ngắn thời gian chuyển giao kiến thức, kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống. Từng bước chủ động tham gia tích cực và hiệu quả thị trường lao động kỹ thuật cao trong khu vực và quốc tế, trước hết là 8 ngành nghề (gồm nha khoa, điều dưỡng, kỹ thuật, xây dựng, kế toán, kiến trúc, khảo sát và du lịch) được tự do chuyển dịch trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Trả lại quyền tự chủ vốn có của các trường đại học - cao đẳng, để giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, năng lực cạnh tranh, vươn tới tầm cao của học vấn; mở rộng liên thông với giáo dục đại học quốc tế, trước hết là khu vực; xây dựng hệ thống trường đại học quốc tế và đại học chất lượng cao làm đầu tàu cho cuộc cách mạng giáo dục - đào tạo. Tiếp tục đổi mới tư duy, cơ chế quản lý cán bộ nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước ngành giáo dục - đào tạo phải đi trước một bước, vì kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, đội ngũ này chính là những người đảm nhận việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển giáo dục - đào tạo góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. 

Hai là, Thành phố tiếp tục quan tâm phát triển ngành tự động hóa, đầu tư nghiên cứu sâu về các nhóm kỹ thuật số, công nghệ thông tin, năng lượng và vật liệu mới, công nghệ sinh học. Người lao động của Thành phố phải luôn tự nâng cao kỹ năng nghề và kỹ năng mềm (kỹ năng giao tiếp; kỹ năng tư duy sáng tạo) để đảm nhận công việc tương lai mà không cần máy móc, từ đó vượt qua những khó khăn và tận dụng thời cơ của cách mạng công nghiệp mang lại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thực hiện chính sách an sinh xã hội bền vững. 

Ba là, tiếp tục cấp tín dụng ưu đãi để hộ nghèo có điều kiện tự tổ chức việc làm cho mình, hỗ trợ người sản xuất nhỏ đầu tư mở rộng sản xuất thu hút lao động. Để hỗ trợ tạo việc làm hiệu quả Thành phố nên sử dụng tổng hợp các loại quỹ như: quỹ xóa đói giảm nghèo; quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm; quỹ hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất để thực hiện các dự án trên địa bàn Thành phố nhằm giải quyết việc làm; ngân hàng phục vụ người nghèo và các quỹ của các tổ chức phi chính phủ, các Đoàn thể xã hội và quản lý việc sử dụng các nguồn qũy đúng đối tượng tránh tình trạng thất thoát, hoặc cấp phát sai đối tượng. Để thực hiện được điều này, Thành phố cần công khai hóa, minh bạch hóa mục tiêu, đối tượng và nội dung của các quỹ này đến người dân, tránh tình trạng lạm dụng quyền lực, bưng bít thông tin của các cán bộ ở các quận huyện, phường xã vì lợi ích cá nhân hay cục bộ. 

Đồng thời, Thành phố cần có cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp, khu vực tư nhân tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn, cho con em gia đình thuộc đối tượng chính sách an sinh xã hội. Nâng cao trình độ cho đội ngũ nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố; đồng thời có cơ chế, chính sách khuyến khích xây dựng, kiên cố hóa cơ sở hạ tầng, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn tạo điều kiện thức đẩy sản xuất, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.

Bốn là, phát huy hơn nữa vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển Thành phố cần phải tiếp tục tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng giữa khu vực kinh tế tư nhân với khu vực kinh tế nhà nước theo nguyên tắc của nền kinh tế thị trường. Hỗ trợ khu vực tư nhân bằng các chính sách thiết thực, sát với nhu cầu thực tiễn. Thiết lập những gói hỗ trợ tổng thể, đồng bộ về thuế, đất đai, tư vấn về công nghệ, trình độ quản lý, đào tạo nghề gắn với nhu cầu của doanh nghiệp. Áp dụng các hình thức vay linh hoạt để doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận nguồn vốn vay không thế chấp tài sản hoặc có thể cho phép họ sử dụng khoản thế chấp linh hoạt hơn. Nhưng trước mắt, Thành phố cần điều chỉnh tiền thuê đất, có chính sách giảm thuế, ưu đãi đối với doanh nghiệp khởi nghiệp gắn với công nghệ. 

Năm là, hoàn thiện cơ sở hạ tầng và bảo đảm thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội cho lao động nhập cư đến sinh sống và làm việc ổn định tại các KCX - KCN ở Thành phố. Theo quy hoạch đến năm 2020, TP.HCM có 24 KCX - KCN tập trung sẽ cần lực lượng lao động khá đông. Vì vậy, Ban Quản lý KCX - KCN TP.HCM cần thường xuyên phối hợp với Sở Giáo dục - Đào tạo, các trường đại học trên địa bàn định hướng các trường đại học tăng cường công tác đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo dạy nghề cho lực lượng lao động đáp ứng nguồn lao động có chất lượng cho các KCX - KCN. Đồng thời, Thành phố cần kết hợp ngay trong từng bước giữa quy hoạch kinh tế, phát triển các khu công nghiệp, các khu đô thị với quy hoạch phát triển xã hội đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động về nhà ở, giáo dục, y tế, nước sạch, môi trường sinh thái.

Ngoài ra, Thành phố cần tích cực phát triển hệ thống giao dịch đa dạng trên thị trường lao động, nhất là giao dịch chính thức thông qua hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm ở tất cả các các quận - huyện, phường - xã và đa dạng hóa các kênh giao dịch, tạo điều kiện cho các giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động đảm bảo cung ứng kịp thời về số lượng, chất lượng lao động; tiếp tục xây dựng cơ sở dữ liệu về thông tin thị trường lao động, nắm chắc tình trạng việc làm của người lao động để đề ra các giải pháp hỗ trợ việc làm phù hợp với tình hình thực tế. Tăng cường thông tin, tuyên truyền các chương trình tuyển chọn lao động đi làm việc tại các thị trường nước ngoài để người lao động có thông tin tìm hiểu, lựa chọn và để nâng cao năng lực bảo vệ bản thân trước nhiều thông tin đăng tải trên các mạng xã hội, của các tổ chức, cá nhân không có chức năng để trục lợi bất chính. 

KẾT LUẬN

Nền kinh tế Việt Nam đã được lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vì vậy, phát triển Việt Nam nói chung, TP.HCM nói riêng đặt mục tiêu để phấn đấu là phải tăng trưởng kinh tế vì con người, vì sự công bằng, tăng trưởng gắn với xóa đói giảm nghèo. Mục tiêu của Thành phố đến năm 2020, xây dựng “Thành phố văn minh, hiện đại, nghĩa tình”. Trong thời gian qua đổi mới, phát huy tính năng động, sáng tạo, Chính quyền và Nhân dân Thành phố đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, về cơ bản, TTKT ở TP.HCM chưa thực sự lan tỏa đến được đại bộ phận người dân. Với những giải pháp được đưa ra, chúng tôi mong muốn góp phần tìm ra hướng đi đúng đắn trong việc thực hiện mối quan hệ giữa TTKT với chính sách giải quyết việc làm ở TP.HCM bền vững vì một Thành phố văn minh, hiện đại./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh. (2017). Niên giám Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh 2016, NXB. Thanh niên. Thành phố Hồ Chí Minh.
2.Ðảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh. (2015). Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X. Thành phố Hồ Chí Minh
3.Đảng Cộng Sản Việt Nam. (2011). Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB. Chính trị Quốc gia. Hà Nội 
4.Thành ủy, HĐND, UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh. (2015). Thành phố Hồ Chí Minh - 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập. NXB. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
5.Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. (2016). Những vấn đề chủ yếu của Văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020. NXB. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
6.Tổng Cục Thống kê. (2016). Niên giám thống kê Việt Nam năm 2015. NXB. Thống kê. Hà Nội.
7.Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh. (2017). Thị trường lao động năm 2017 dự báo nhu cầu nhân lực năm 2018 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Số: 424/BC-TTDBNL, ngày 15/12
8.UBND Thành phố Hồ Chí Minh. (2012). Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2020. Thành phố Hồ Chí Minh.
9.UBND Thành phố Hồ Chí Minh. (2017). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội Thành phố năm 2017 và nhiệm vụ, giải pháp năm 2018. Số: 217/BC-UBND, ngày 26/12.

 

Nguyễn Minh Trí - Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất