Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV,
sáng 20/6, tại Nhà Quốc hội, các đại biểu biểu quyết thông qua Luật
Phòng thủ dân sự, với 469/475 phiếu tán thành (tương đương 94,94% tổng
số đại biểu Quốc hội).
Luật Phòng thủ dân sự quy định nguyên tắc, hoạt động phòng thủ dân sự; quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động phòng thủ dân sự;
quản lý nhà nước và nguồn lực bảo đảm thực hiện phòng thủ dân sự.
Luật gồm 7 chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024.
Nguyên tắc hoạt động phòng thủ dân sự là tuân thủ Hiến pháp, pháp
luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất
của Nhà nước; phát huy vai trò, sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể và nhân dân; được tổ
chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương; có sự phân công, phân cấp,
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức và lực lượng trong hoạt
động phòng thủ dân sự.
Phòng thủ dân sự phải chuẩn bị từ sớm, từ xa, phòng là chính; thực
hiện phương châm bốn tại chỗ kết hợp với chi viện, hỗ trợ của Trung
ương, các địa phương khác và cộng đồng quốc tế; chủ động đánh giá nguy
cơ xảy ra sự cố, thảm họa, xác định cấp độ phòng thủ dân sự và áp dụng
các biện pháp phòng thủ dân sự phù hợp để ứng phó, khắc phục kịp thời
hậu quả chiến tranh, sự cố, thảm họa, thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ nhân
dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân, hạn chế thấp nhất thiệt
hại về người và tài sản, ổn định đời sống nhân dân.
Bên cạnh đó, kết hợp phòng thủ dân sự với bảo đảm quốc phòng, an
ninh, phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của
nhân dân, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái và thích ứng với biến đổi khí
hậu.
Việc áp dụng các biện pháp, huy động nguồn lực trong phòng thủ dân sự
phải kịp thời, hợp lý, khả thi, hiệu quả, tránh lãng phí và phù hợp với
đối tượng, cấp độ phòng thủ dân sự theo quy định của Luật này và quy
định khác của pháp luật có liên quan.
Hoạt động phòng thủ dân sự phải bảo đảm tính nhân đạo, công bằng,
minh bạch, bình đẳng giới và ưu tiên đối tượng dễ bị tổn thương.
Chính sách của Nhà nước về phòng thủ dân sự là ưu tiên đầu tư xây
dựng công trình phòng thủ dân sự chuyên dụng theo quy hoạch, kế hoạch;
mua sắm trang thiết bị phòng thủ dân sự; nâng cao năng lực cho lực lượng
phòng thủ dân sự, xây dựng lực lượng chuyên trách về tổ chức và trang
bị hiện đại, chuyên nghiệp; tăng cường trang bị, phương tiện lưỡng dụng
cho lực lượng vũ trang. Đồng thời, huy động các nguồn lực của cơ quan,
tổ chức, cá nhân để thực hiện hoạt động phòng thủ dân sự; phát triển,
nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ cao,
công nghệ tiên tiến và hiện đại vào hoạt động phòng thủ dân sự. Đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, ưu tiên thu hút nguồn nhân lực chất lượng
cao để bảo đảm cho hoạt động phòng thủ dân sự; khuyến khích, tạo điều
kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân ủng hộ vật chất, tài chính, tinh thần
cho hoạt động phòng thủ dân sự trên nguyên tắc tự nguyện, không trái với
pháp luật Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế; bảo đảm dự trữ
quốc gia cho hoạt động phòng thủ dân sự.
Căn cứ xác định cấp độ phòng thủ dân sự bao gồm: Phạm vi ảnh hưởng,
khả năng lan rộng và hậu quả có thể xảy ra của sự cố, thảm họa; vị trí
địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội, dân cư, đặc điểm tình hình quốc
phòng, an ninh của địa bàn chịu ảnh hưởng của sự cố, thảm họa; diễn
biến, mức độ gây thiệt hại và thiệt hại do sự cố, thảm họa gây ra; khả
năng ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố, thảm họa của chính quyền địa
phương và lực lượng phòng thủ dân sự.
Cấp độ phòng thủ dân sự được quy định: Phòng thủ dân sự cấp độ 1 được
áp dụng để ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố, thảm họa trong phạm vi địa
bàn cấp huyện, khi diễn biến, mức độ thiệt hại của sự cố, thảm họa vượt
quá khả năng, điều kiện ứng phó, khắc phục hậu quả của lực lượng chuyên
trách và chính quyền địa phương cấp xã.
Phòng thủ dân sự cấp độ 2 được áp dụng để ứng phó, khắc phục hậu quả
sự cố, thảm họa trong phạm vi địa bàn cấp tỉnh, khi diễn biến, mức độ
thiệt hại của sự cố, thảm họa vượt quá khả năng, điều kiện ứng phó, khắc
phục hậu quả của chính quyền địa phương cấp huyện.
Phòng thủ dân sự cấp độ 3 được áp dụng để ứng phó, khắc phục hậu quả
sự cố, thảm họa trên địa bàn một hoặc một số tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, khi diễn biến, mức độ thiệt hại của sự cố, thảm họa vượt quá
khả năng, điều kiện ứng phó, khắc phục hậu quả của chính quyền địa
phương cấp tỉnh.
Quốc hội thông qua Luật Phòng thủ dân sự. (Ảnh: TTXVN)
Về quỹ phòng thủ dân sự, đây là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân
sách, được thành lập ở Trung ương và cấp tỉnh để huy động nguồn lực xã
hội để hỗ trợ hoạt động phòng thủ dân sự. Quỹ phòng thủ dân sự được ưu
tiên thực hiện các hoạt động như cứu trợ khẩn cấp về lương thực, nước
uống, thuốc chữa bệnh và các nhu yếu phẩm thiết yếu khác cho đối tượng
bị thiệt hại do sự cố, thảm họa gây ra; hỗ trợ tu sửa, làm nhà ở, cơ sở y
tế, trường học tại địa điểm bị ảnh hưởng do sự cố, thảm họa gây ra.
Quỹ phòng thủ dân sự được hình thành từ các nguồn tài chính: Đóng góp
tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước; nguồn điều
tiết từ các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách có liên quan đến hoạt
động ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố, thảm họa.
Nguyên tắc hoạt động của quỹ phòng thủ dân sự không vì mục đích lợi
nhuận; quản lý, sử dụng đúng mục đích, đúng pháp luật, kịp thời, hiệu
quả, bảo đảm công khai, minh bạch; hỗ trợ cho các hoạt động phòng thủ
dân sự mà ngân sách nhà nước chưa đầu tư hoặc chưa đáp ứng yêu cầu. Việc
điều tiết giữa quỹ phòng thủ dân sự và các quỹ tài chính nhà nước ngoài
ngân sách có liên quan đến hoạt động ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố,
thảm họa được thực hiện trong trường hợp cấp bách.
Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập, quản lý, sử dụng quỹ
phòng thủ dân sự; việc điều tiết giữa quỹ phòng thủ dân sự và các quỹ
tài chính nhà nước ngoài ngân sách có liên quan đến hoạt động ứng phó,
khắc phục hậu quả sự cố, thảm họa./.
TTXVN