Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã ký ban hành Nghị quyết số 757/NQ-UBTVQH15 ban hành Quy chế Bảo vệ bí mật nhà nước trong hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Về thẩm quyền xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước,
Nghị quyết quy định Chủ tịch Quốc hội xác định bí mật nhà nước và độ
mật của bí mật nhà nước đối với thông tin của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch Quốc hội xác định
bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước. Việc ủy quyền phải được
thể hiện bằng văn bản.
Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của
Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Trưởng Ban thuộc Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp xác định bí mật nhà
nước và độ mật của bí mật nhà nước đối với thông tin của cơ quan mình.
Người đứng đầu vụ, cục, đơn vị xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước đối với thông tin của đơn vị mình.
Người có thẩm quyền có thể ủy quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước đối với thông tin thuộc lĩnh vực phụ trách.
Việc ủy quyền được quy định trong quy chế làm việc hoặc văn bản phân
công công tác hằng năm của cơ quan, đơn vị hoặc bằng văn bản ủy quyền
trong từng trường hợp cụ thể.
Cấp phó được ủy quyền xác định bí mật nhà nước phải chịu trách nhiệm
về quyết định của mình trước cấp trưởng, trước pháp luật và không được
ủy quyền tiếp cho người khác.
Theo Nghị quyết, việc xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật
nhà nước phải căn cứ vào quy định của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước và
danh mục bí mật nhà nước thuộc các lĩnh vực do Thủ tướng Chính phủ ban
hành. Trường hợp sử dụng bí mật nhà nước của cơ quan, tổ chức, đơn vị
khác thì phải xác định độ mật tương ứng.
Dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết có nội dung bí mật nhà nước sau
khi được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua không còn là bí
mật nhà nước, trừ trường hợp cần xác định là bí mật nhà nước thì cơ quan
của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội chủ trì nội dung
phối hợp với cơ quan trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết báo
cáo Chủ tịch Quốc hội xem xét, quyết định.
Trường hợp thông tin trong cùng một tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước có độ mật khác nhau thì xác định theo độ mật cao nhất.
Người tiếp nhận thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước nhưng chưa
được xác định là bí mật nhà nước có trách nhiệm báo cáo người đứng đầu
cơ quan, đơn vị để xử lý theo thẩm quyền hoặc xem xét, quyết định việc
chuyển đến cơ quan, đơn vị có chức năng để xừ lý theo quy định. Thông
tin tiếp nhận phải được bảo vệ trong quá trình tiếp nhận và xử lý.
Trường hợp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước được phép sao, chụp,
thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước cũng
được quy định cụ thể.
Theo đó, Chủ tịch Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng
Dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội,
Trưởng Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu
lập pháp cho phép sao chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước độ Tuyệt
mật, Tối mật, Mật.
Vụ trưởng, Cục trưởng, Trưởng đơn vị thuộc Văn phòng Quốc hội, trừ
người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền cho phép sao,
chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật, Mật.
Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Văn phòng Quốc hội;
người đứng đầu đơn vị tương đương cấp Vụ của đơn vị sự nghiệp công lập
thuộc Văn phòng Quốc hội và Viện Nghiên cứu lập pháp có thẩm quyền cho
phép sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước độ Tối mật, Mật.
Người đứng đầu đơn vị cấp phòng thuộc các vụ, cục, đơn vị thuộc Văn
phòng Quốc hội và Viện Nghiên cứu lập pháp có thẩm quyền cho phép sao,
chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước độ Mật.
Người có thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà
nước trên có thể ủy quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền cho phép sao,
chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước.
Việc ủy quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước
được thực hiện thường xuyên hoặc theo từng trường hợp cụ thể và phải
được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác định rõ phạm vi, nội dung, thời
hạn ủy quyền.
Cấp phó được ủy quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật
nhà nước phải chịu trách nhiệm về quyết định cho phép sao, chụp của mình
trước cấp trưởng, trước pháp luật và không được ủy quyền tiếp cho người
khác.
Nghị quyết cũng quy định các nội dung về mang tài liệu, vật chứa bí
mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ; cung cấp, chuyển giao bí mật nhà nước
cho cơ quan, tổ chức, người Việt Nam được giao thực hiện nhiệm vụ liên
quan trực tiếp đến bí mật nhà nước; tổ chức hội nghị, hội thảo, cuộc họp
có nội dung bí mật nhà nước.../.
TTXVN