ĐƯA VIỆT NAM TRỞ THÀNH QUỐC GIA MẠNH VỀ BIỂN, GIÀU TỪ BIỂN
Quy hoạch Không gian biển Quốc
gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 bao gồm 9 nội dung chính: 1) Vai trò, vị trí của Quy hoạch không gian biển quốc gia; 2) Cách tiếp
cận và phương pháp lập Quy hoạch không gian biển quốc gia; 3) Cơ sở lập Quy
hoạch không gian biển quốc gia; 4) Phạm vi của Quy hoạch không gian biển
quốc gia; 5) Những vấn đề trọng tâm cần giải quyết; 6) Quan điểm, mục tiêu,
tầm nhìn của Quy hoạch; 7) Định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực và
vùng ven biển, đảo; 8) Phân vùng chức năng và phân vùng sử dụng không gian
biển; 9) Giải pháp để thực hiện Quy hoạch và danh mục dự án ưu tiên.
Quy hoạch không gian biển quốc gia
(Quy hoạch) là một trong ba quy hoạch quốc gia trình Quốc hội. Đây là
quy hoạch đa ngành, mang tính tổng hợp, định hướng cho các hoạt động
khai thác, sử dụng tài nguyên biển, hải đảo theo hướng bền vững; được lập theo cách tiếp cận phân bổ, sắp xếp không gian biển cho
các ngành, lĩnh vực hoạt động; có ý nghĩa quan trọng, tạo ra
một sự thống nhất hữu cơ trong hệ thống quy hoạch phát triển đất nước,
giữa vùng đất liền, vùng biển và vùng trời, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
bảo vệ môi trường và các hệ sinh thái, góp phần giữ vững chủ quyền đất
nước.
Quy
hoạch không gian biển Quốc gia đã áp dụng cách tiếp cận lập quy hoạch
hệ thống và tổng hợp, liên ngành - liên vùng, dựa vào hệ sinh thái, cảnh
quan, thích ứng, hướng đến nền kinh tế biển xanh, phát triển bền vững,
đa tỷ lệ, từ dưới lên và trên xuống.
Quy
hoạch nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách thực hiện quy hoạch: Xây dựng
và triển khai bộ tiêu chí quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển; xây dựng
quy chế xử lý những vùng chồng lấn, mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng
không gian biển; xây dựng và ban hành chính sách để phát triển mô hình
kết hợp kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường, bảo tồn biển với bảo đảm
quốc phòng - an ninh trên biển.
Quy
hoạch thể hiện trên 4 quan điểm là bảo đảm tầm nhìn dài hạn, tổng thể
đáp ứng các mục tiêu của Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển
Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Chiến lược Phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030; phù hợp, thống nhất, đồng bộ với Quy hoạch tổng
thể quốc gia, Quy hoạch sử dụng đất quốc gia.
Dựa
trên nền tảng điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái biển, hải đảo, nhu cầu
sử dụng của các ngành, lĩnh vực và địa phương có biển tạo động lực phát
kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ môi trường, bảo tồn biển, bảo đảm quốc phòng - an ninh; bảo đảm
phát triển bền vững trên nền tảng tăng trưởng xanh, hài hòa giữa bảo tồn
và phát triển, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Quy
hoạch hướng tới mục tiêu, tạo cơ sở cho phát triển kinh tế biển nhanh
và bền vững; bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền
tài phán quốc gia trên biển; bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, các giá
trị văn hóa, từng bước đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển,
giàu từ biển.
ĐẢM BẢO SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Cùng
với các nhiệm vụ khác trong Quy hoạch không gian biển quốc gia, việc
định hướng bố trí sử dụng không gian biển hợp lý góp phần khai thác, sử
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên biển, đảo của nước ta. Quy hoạch định
hướng sử dụng không gian biển theo các vùng: Vùng biển và ven biển; các
đảo và quần đảo; các khu bảo tồn biển; vùng trời; hoạt động lấn biển và
nhận chìm. Đối với mỗi không gian này, Quy hoạch định hướng việc khai
thác, phát huy tài nguyên biển đảo theo hướng bền vững.
Trong
đó, đối với vùng biển và ven biển, việc phân vùng sử dụng biển để phát
triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh
về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, bản sắc văn hoá, tính đa dạng của
hệ sinh thái, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng - an ninh, tính
liên kết vùng, giữa địa phương có biển và không có biển. Bao gồm vùng
biển và ven biển phía Bắc; Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ; Đông Nam
Bộ và Tây Nam Bộ.
Tại
vùng biển và ven biển phía Bắc: Phát triển cụm liên kết ngành kinh tế
biển phía Bắc với khu vực trọng điểm phát triển ở Hải Phòng - Quảng Ninh
là trung tâm kinh tế biển, là cửa ngõ, động lực phát triển vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ gắn với cảng quốc tế Lạch Huyện - Đình Vũ (Hải
Phòng)- Yên Hưng - Cái Lân - Cẩm Phả (Quảng Ninh).
Tiếp
tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm nuôi
biển, gắn với Trung tâm nghề cá lớn Hải Phòng được đồng bộ trong hệ
thống các cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá hoạt động trong
ngư trường vịnh Bắc Bộ, đóng sửa tàu cá. Phát triển nuôi trồng thủy hải
sản tại các vùng đất ven biển, trong vùng với bảo tồn biển và du lịch
quốc gia; xây dựng các vùng sản xuất giống nhuyễn thể tập trung, đáp ứng
nhu cầu giống nhuyễn thể cho khu vực và cả nước; khuyến khích phát
triển các mô hình nuôi trồng thủy sản thâm canh áp dụng công nghệ mới,
tiên tiến, năng suất cao, giảm giá thành sản xuất, thân thiện môi
trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Vùng
biển và ven biển Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ: Phát triển
cảng nước sâu trung chuyển quốc tế, cảng biển chuyên dụng gắn với khu
công nghiệp liên hiệp dầu khí, điện, năng lượng tái tạo, công nghiệp
sạch. Phát triển công nghiệp biển gắn với thu hút đầu tư, phát triển các
khu kinh tế ven biển (Nghi Sơn, Đông Nam Nghệ An, Vũng Áng, Hòn La,
Đông Nam Quảng Trị, Chân Mây – Lăng Cô, Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội,
Nam Phú Yên, Vân Phong).
Phát
triển các trung tâm du lịch biển lớn gắn với các khu du lịch quốc gia
trọng điểm tại các địa phương ven biển là Phong Nha - Kẻ Bàng, Hội An -
Cù Lao Chàm và Bắc Cam Ranh. Hình thành nhiều trung tâm phát triển có
quy mô vừa và nhỏ, phân bố hợp lý, không quá tập trung vào các thành phố
lớn. Kết hợp giữa phát triển có trọng điểm chuỗi đô thị ven biển trong
vùng với việc hình thành một số chuỗi đô thị quy mô nhỏ hơn, đồng thời
phát triển các đô thị vệ tinh ở phía Tây, để hỗ trợ sự nghiệp công
nghiệp hoá nông thôn và hạn chế di dân ồ ạt, thiếu tổ chức vào các đô
thị lớn. Phát triển hiệu quả khai thác hải sản vùng khơi, nhất là nghề
câu cá ngừ đại dương, nghề vây, nghề chụp.
Vùng
biển và ven biển Đông Nam bộ: Phát triển cảng biển trung chuyển quốc
tế, dịch vụ hậu cần cảng biển, dịch vụ đảm bảo an toàn hàng hải, công
nghiệp khai thác, chế biến dầu khí, công nghiệp hỗ trợ và các dịch vụ
ngành dầu khí; phát triển du lịch biển quốc tế. Ưu tiên phát triển cụm
liên kết ngành kinh tế biển tại Thành phố Hồ Chí Minh như du lịch biển, năng
lượng tái tạo; từng bước đầu tư phát triển công nghệ sinh học biển, dược
liệu biển, bên cạnh việc thúc đẩy các ngành kinh tế truyền thống.
Phát
triển Vũng Tàu thành trung tâm hướng ra biển, cửa ngõ ra biển cho vùng
Đông Nam Bộ và nước bạn Campuchia, Lào, Thái Lan. Phát triển hiệu quả
khai thác hải sản vùng khơi, chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác phù hợp
với điều kiện tự nhiên, nguồn lợi thủy sản. Tổ chức hợp lý các nghề khai
thác thủy sản vùng lộng, vùng ven bờ và duy trì khai thác thủy sản nội
địa. Áp dụng phương thức nuôi công nghiệp, ưu tiên phát triển các mô
hình nuôi đa loài phù hợp với từng vùng sinh thái, sức tải môi trường,
áp dụng mô hình đồng quản lý ở vùng bãi triều, đầm phá, rừng ngập mặn
ven biển; phát triển nuôi trồng thủy sinh vật cảnh theo hướng sản xuất
hàng hóa phục vụ du lịch và xuất khẩu.
Vùng
biển và ven biển Đồng bằng sông Cửu Long: Phát triển công nghiệp dầu
khí, chế biến khí, điện khí, năng lượng tái tạo (Bạc Liêu, Cà Mau). Mở
rộng diện tích nuôi trồng thủy sản trên các vùng bị ảnh hưởng bởi xâm
nhập mặn. Phát triển nuôi tôm nước lợ theo mô hình công nghiệp, công
nghệ hiện đại, siêu thâm canh, năng suất cao; mô hình nuôi đa loài phù
hợp với từng vùng sinh thái, sức tải môi trường. Phát triển nuôi sinh
thái, hữu cơ tại các vùng rừng ngập mặn, vùng tôm - lúa nhiễm mặn ven
biển, gắn kết hài hòa với du lịch sinh thái biển, bảo vệ và phát triển
nguồn lợi; áp dụng mô hình đồng quản lý ở vùng rừng ngập mặn ven biển.
Xây
dựng thành phố Cà Mau và Rạch Giá trở thành những trung tâm kinh tế biển mạnh
của cả nước, xứng tầm đô thị vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu
Long, làm căn cứ vững chắc để đẩy mạnh khai thác toàn diện vùng biển
Tây Nam. Đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông, kết nối liên thông
các cảng biển với các vùng, miền, địa phương trong nước và quốc tế, phục
vụ phát triển các vùng kinh tế biển.
Đối
với các đảo, quần đảo: Hoàn thành cơ bản xây dựng kết cấu hạ tầng đồng
bộ, hiện đại cho một số đảo trọng điểm về kinh tế (Vân Đồn, Cát Hải, Phú
Quốc), tập trung vào các khu kinh tế, khu công nghệ cao, dịch vụ tổng
hợp chất lượng cao và du lịch đẳng cấp để phát triển các đảo này thành
các đảo trù phú, sầm uất có tầm cỡ khu vực và quốc tế, tạo sự bứt phá
mạnh mẽ về phát triển kinh tế biển, đảo của cả nước.
Đối
với các đảo nhỏ: Đảo Trần, Hòn Mê, Cồn Cỏ, các đảo thuộc quần đảo
Trường Sa, quần đảo Thổ Chu, quần đảo Hà Tiên và nhiều đảo khác, nhiệm
vụ quan trọng là tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh để canh giữ và bảo vệ vững
chắc các vùng biển đảo của Tổ quốc, đồng thời kết hợp phát triển một số
ngành kinh tế có lợi thế và bảo tồn thiên nhiên tại các đảo. Xây dựng
huyện đảo Trường Sa trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội, trung
tâm hậu cần nghề cá, tìm kiếm cứu nạn; phát triển tuyến du lịch kết nối
đảo với đất liền; trở thành thành trì vững chắc bảo vệ chủ quyền biển
đảo của Tổ quốc. Tiếp tục vận động người dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội,
văn hóa, ổn định cuộc sống lâu dài trên huyện đảo. Tiếp tục khẳng định
chủ quyền, đấu tranh lấy lại Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình, trên cơ
sở luật pháp quốc tế, thỏa thuận cấp cao giữa hai nước.
Đối
với các khu bảo tồn biển: Tăng cường nâng cấp 12 khu bảo tồn biển đã
được thiết lập và đưa vào hoạt động. Thành lập đưa vào hoạt động 4 khu
bảo tồn biển trước năm 2025, bao gồm: Hòn Mê, Hải Vân - Sơn Trà, Nam Yết
và Phú Quý. Quy hoạch các khu bảo tồn biển mới, hướng tới mục tiêu đưa
40 khu vào hoạt động.
Đối
với vùng trời: Vùng trời trong quy hoạch này được bố trí khai thác, sử
dụng cho các mục đích quốc phòng - an ninh, phát triển hàng không dân dụng và các hoạt
động tìm kiếm, cứu nạn và nghiên cứu khoa học trên cơ sở tuân thủ luật
pháp của Việt Nam, luật pháp quốc tế và các công ước, hiệp ước quốc tế
mà Việt Nam tham gia, là thành viên. Thực thi quản lý vùng trời thuộc
chủ quyền của Việt Nam; quản lý các vùng thông báo bay theo thỏa thuận
quốc tế về hàng không dân dụng.
Đối
với hoạt động lấn biển và nhận chìm: Các hoạt động lấn biển có thể được
diễn ra nếu đáp ứng các tiêu chí sau đây: Hoạt động lấn biển phải hạn
chế thấp nhất việc ảnh hưởng môi trường tự nhiên và hệ sinh thái ven
biển, đảo; hoạt động lấn biển phải làm tăng giá trị cảnh quan và phát
huy lợi thế về vị trí địa lý bám biển; phải mở rộng không gian phát
triển cho các địa phương ven biển, cho các đảo.
Các
hoạt động này phải đảm bảo phù hợp với các quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch không gian biển, quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững
tài nguyên vùng bờ. Các hoạt động nhận chìm có thể được diễn ra nếu đáp
ứng các tiêu chí về vị trí khu vực biển sử dụng để nhận chìm; kích thước
các khu vực nhận chìm; công suất khu vực nhận chìm; tác động của nhận
chìm; thời gian nhận chìm; vật chất nhận chìm theo đúng quy định của
pháp luật.
Quy
hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050
phải đảm bảo việc khai thác và sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên
vùng bờ trong khả năng chống chịu, phục hồi của hệ sinh thái và chịu tải
của môi trường để thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế biển theo hướng
xanh, tuần hoàn, hiện đại, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước,
góp phần đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát
triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn,.../.
NGUYỄN LÊ HƯỜNG
Viện Khoa học Môi trường, biển và hải đảo
(Nguồn: TC Tài nguyên & Môi trường)