Từ góc độ Luật học, chúng tôi xin được khái quát thực trạng quyền tiếp cận thông tin và những yếu tố tác động đến thực trạng quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay nhằm góp phần đề xuất một số giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân; góp phần vào tiến trình dân chủ hóa ngày càng sâu rộng, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1. Khái quát thực trạng quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay
Tiếp cận thông tin (TCTT) là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị, được tổ chức Liên hợp quốc ghi nhận: “Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.”(1) Trong tiến trình hội nhập quốc tế thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước ta cũng luôn quan tâm, chú trọng đến các vấn đề thuộc quyền con người và luôn có các biện pháp cụ thể nhằm bảo đảm không ngừng nâng cao quyền TCTT của người dân, coi đây là một giải pháp hữu hiệu bảo đảm quyền con người được thực thi ở Việt Nam, cũng như thể hiện thái độ tích cực hội nhập quốc tế theo xu thế nhân quyền và hòa bình. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền TCTT của người dân ở Việt Nam trong mối tương quan với các loại quyền chính trị - dân sự khác vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn do chưa xác định rõ cơ chế pháp lý hữu hiệu, đầy đủ để người dân thực hiện.
Theo quy định của Hiến pháp: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin,…”(2) Thực chất, đây cũng chỉ là sự cụ thể hóa thêm các quy định: “Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính cách hoà bình.”, “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng…”(3) mà Liên hợp quốc đã đề cập.
Trên thực tế, ở Việt Nam quyền TCTT của người dân chỉ đến Hiến pháp 1992 mới quy định tại Điều 69. Quyền TCTT hay quyền được thông tin trong Hiến pháp 2013 còn là sự thể chế hóa tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng: “Bảo đảm quyền được thông tin”(4) của công dân. Để thể chế hóa quan điểm của Đảng và cụ thể hóa Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành có chứa đựng các quy định về quyền được thông tin và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin. Luật về Kế toán năm 2003 quy định đơn vị kế toán có trách nhiệm cung cấp thông tin…cho tổ chức, cá nhân (Khoản 2, Điều 16)(5); Luật Nhà ở năm 2014 quy định “Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu, thông tin về nhà ở… phải tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu khai thác, sử dụng thông tin nhà ở...” (Khoản 3, Điều 166)(6); và quyền của cá nhân “cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc cung cấp thông tin … Công dân có quyền yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú cung cấp thông tin…”(7); Cơ quan công quyền Trung ương cũng được xác định về nghĩa vụ thông tin: “Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực và Chủ tịch nước công bố chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày thông qua.”(8) Người đứng đầu cơ quan hành pháp trung ương phải: “Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng…”(9)
Nhìn chung, các quy định về quyền TCTT của người dân đều hướng tới việc hiện thực hóa các quy định yêu cầu cơ quan, cá nhân khối công quyền buộc phải thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm cho người dân được TCTT. Trong đó, một công cụ hữu hiệu nhất sẽ bảo đảm cho người dân được TCTT đó là báo chí. Theo Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành kèm theo Quyết định số 25/2013/QĐ-TTg ngày 04 tháng 5 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ còn quy định, các cơ quan nhà nước thực hiện việc cung cấp thông tin cho báo chí thông qua người phát ngôn, các Bộ, … Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí về hoạt động của cơ quan mình, về lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi quản lý của mình.(10)
Từ các quy định trên đây của pháp luật, thực tế người dân đã được TCTT trên một số lĩnh vực cụ thể như hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật, giải quyết yêu cầu của công dân thông qua hoạt động cụ thể của chính quyền nhà nước như tổ chức hội thảo, toạ đàm, lấy ý kiến, đăng dự thảo trên trang thông tin điện tử của các cơ quan Quốc hội, Chính phủ… Nhiều phiên họp của Quốc hội cũng được truyền hình trực tiếp đến với người dân. Cơ chế “một cửa” với các thông tin về thủ tục hành chính, thời gian giải quyết, phí, lệ phí trong một số lĩnh vực được niêm yết công khai. Các cơ quan tư pháp như Tòa án, Viện kiểm sát cũng từng bước nâng cao hoạt động công khai các bản án, phán quyết của Toà án, bảo đảm việc TCTT cho các đương sự; quy định cho phép luật sư được tiếp cận với hồ sơ vụ án phục vụ cho bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo....
Cùng với việc cụ thể hóa các quy định từ Hiến pháp, Nhà nước ta đã “nội luật hóa” một số quy định trong Điều ước quốc tế để bảo đảm quyền TCTT của công dân và công dân nước ngoài. Tuy nhiên, việc thể chế và chi tiết hóa quyền TCTT còn chậm, tản mạn, chưa bao quát đầy đủ các lĩnh vực của cuộc sống và chưa có một cơ chế pháp lý rõ ràng nên việc thực hiện quyền tự do TCTT của công dân còn rất hạn chế. Hầu hết các văn bản hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc quy định trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước cũng như quyền TCTT mang tính nguyên tắc chung và ít tính thực tiễn. Các quy định về TCTT chủ yếu giao quyền tự quyết định việc cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý thông tin và mỗi lĩnh vực lại có những quy định khác nhau về cách thức, quy trình cung cấp thông tin. Trong đó, việc quyết định có cung cấp thông tin ra công chúng hay không và cung cấp ở mức độ nào lại phụ thuộc rất lớn vào “sở thích” của thủ trưởng các cơ quan và không có chế tài cụ thể nào để xử lý các trường hợp như vậy.
Vì quy định pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập nên việc TCTT do các cơ quan nhà nước nắm giữ vẫn vô cùng khó khăn, dẫn tới tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan công quyền chưa được thực hiện, biểu hiện rõ nhất là trong hoạt động đền bù giải phóng mặt bằng, vay ODA, cứu trợ thiên tai, các gói hỗ trợ doanh nghiệp, kích cầu tiêu dùng, tình hình chi tiêu tài chính nội bộ…
2. Những yếu tố tác động đến thực trạng quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay
- Yếu tố chính trị:
+ Đảng lãnh đạo: Ở nước ta, Đảng là “…lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”(2) nên rất dễ trở thành độc đoán, chuyên chế nếu không thực thi đầy đủ các nguyên tắc dân chủ và tăng cường hoạt động của các thiết chế dân chủ. Đảng lãnh đạo nên việc thông tin đến công chúng thường bị chi phối theo quan điểm và nhằm bảo vệ quyền lợi của Đảng cầm quyền là một tất yếu khó tránh khỏi. Tuy nhiên, bản chất của Đảng ta là đảng của nhân dân cần lao nên việc bảo vệ quyền lợi của Đảng cũng chính là bảo vệ quyền lợi của người lao động. Diễn đạt như vậy “hoàn toàn không phải là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, trượt sang quan điểm “đảng toàn dân” mà chính là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, nhuần nhuyễn hơn. Nó đòi hỏi Đảng ta chẳng những phải trung thành với giai cấp công nhân, nâng cao lập trường tư tưởng của giai cấp công nhân, mà còn phải học tập, kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tăng cường đoàn kết, tập hợp nhân dân phấn đấu vì lợi ích của cả giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc.”(11) Mặc dù vậy, trong một số lĩnh vực, trên một số phương diện, Đảng ta cũng đang có những bước đi chưa thực sự hợp Hiến và cần có một sự giải thích thật sự hợp lý, khoa học để người dân có thể dễ chấp nhận và không cảm thấy đó là sự độc đoán, chuyên chế. Cụ thể như Điều 25 Hiến pháp 2013 đã quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Đã quy định là tự do thì không ai được phép xâm phạm, chà đạp các quyền đó. Có nghĩa là người dân phải được nói lên tiếng nói nội tâm của mình, nói ra những suy nghĩ sâu xa của mình. Và việc nói đó của người dân không bị xét là vi Hiến. Tuy nhiên, trên thực tế một số vấn đề được cho là nhạy cảm như Đảng cầm quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng, đường lối kinh tế, dự án, tình trạng tham nhũng… người dân lại đang khó có thể nói lên tiếng nói của mình. Thực tế, đó chính là sự chưa bảo đảm quyền của người dân theo Hiến pháp. Khi không được tự do bàn luận về một số vấn đề của chính trị, pháp luật, xã hội thì cũng đồng nghĩa người dân không được TCTT cần thiết trong lĩnh vực họ quan tâm. Thiết nghĩ, trong thời đại công nghệ thông tin internet bùng nổ như hiện nay, trình độ văn hóa, ngoại ngữ của người dân ngày càng cao, nhu cầu và khả năng giao lưu quốc tế ngày càng lớn thì việc cấm đoán bàn luận vấn đề được cho là “nhạy cảm chính trị”, là “ảnh hưởng đến địa vị lãnh đạo của Đảng”… cũng sẽ trở lên hết sức phiêu lưu và khó có thể thực hiện được. Điều này khiến cho áp lực quản lý nhà nước về thông tin cũng hết sức khó khăn. Các cơ quan quản lý thông tin truyền thông vốn lực lượng đang bị dàn trải, lại quản lý một lĩnh vực có không gian rộng (bất cứ đâu trong và ngoài nước) và có chiều sâu (bất cứ ai dù quan chức hay dân thường) thể hiện tư tưởng, tâm tư, tình cảm của họ về một vấn đề nhất định thì khó có thể kiểm soát hiệu quả. Mặt khác, việc cụ thể một số quyền như biểu tình đến nay vẫn chưa có luật. Thực tế này cho thấy Đảng ta cần cởi mở hơn nữa về thông tin và TCTT để công tác quản lý nhà nước và xã hội của các cơ quan chức năng được bảo đảm, quyền tự do của người dân cũng được đảm bảo hơn và quan trọng là xã hội sẽ phát đạt hơn.
Chưa thể chế hóa kịp thời các quy định của Hiến pháp thành pháp luật, cộng thêm việc chưa cởi mở về sự tự do ngôn luận bày tỏ chính kiến của người dân sẽ khiến cho không khí chính trị trong nước sẽ bị cảm giác mất dân chủ chi phối. Thực tế thì người dân vẫn bàn luận những vấn đề quan tâm trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội. Tầng lớp tri thức vẫn bàn luận cao xa những vấn đề mà họ quan tâm và đôi khi còn giữ vai trò chủ đạo trong định hướng dư luận của nhóm dân cư nhất định trên mọi diễn đàn, mọi phương tiện thông tin. Diễn đàn chính thống trong nước không được bàn luận thì họ bàn luận trên các diễn đàn quốc tế, diễn đàn phi chính thống. Đây là một điều nguy hiểm, vì bản chất của Đảng ta là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đã là đại biểu như vậy thì cần phải lắng nghe tiếng nói phản biện nhiều chiều từ phía người dân, còn việc có tiếp thu hay không và tiếp thu ở mức độ nào là do Đảng. Đối với mọi người dân, quyền được nói nếu không được bảo đảm thì sẽ làm tăng tính bức xúc của người dân với Đảng cầm quyền, lúc đó dù Đảng tốt mấy thì cũng dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền nhảm là xấu, là mất dân chủ, mất nhân quyền…
Quyền tự do ngôn luận không được đảm bảo sẽ kéo theo quyền TCTT của người dân cũng sẽ không được đảm bảo. Vì tất yếu các thông tin trái chiều đến từ xã hội cũng sẽ không được chuyển tải đến người dân. Điều này sẽ khiến Đảng ta dễ xa rời quần chúng, trở nên độc đoán, chuyên chế và bất lợi cho hoạt động của Đảng trong quá trình lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
+ Nhà nước quản lý: Nhà nước được xác định là trung tâm quyền lực chính trị - là công cụ giai cấp để Đảng cầm quyền biến các chủ trương, đường lối của mình thành hiện thực, vì xét cho cùng thì“Tính giai cấp của nhà nước thể hiện ở chỗ nhà nước là bộ máy đặc biệt do giai cấp cầm quyền tổ chức ra”(12) nên trong quá trình thực thi các hoạt động của mình, nhà nước luôn thể hiện rõ vai trò là nhà tổ chức quản lý và liên tục có các hoạt động cung cấp thông tin đến người dân. Các cơ quan nhà nước về cơ bản đã công khai rất nhiều thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng, tuy nhiên thông tin đưa ra công chúng được đánh giá là rất chậm chạp, tản mạn, đôi khi là trái chiều và ít có sự tổng hợp, bình luận, đánh giá và đưa ra kết luận vấn đề để người dân nắm vững thông tin được tiếp cận. Đặc biệt là chưa đưa ra những khuyến nghị cho người dân về hậu quả kèm theo của thông tin. Trong các chính sách có liên quan đến thông tin chưa đề cao tính chịu trách nhiệm của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong cung cấp thông tin nói chung và thông tin thất thiệt cho người dân nói riêng. Ví dụ: Thông tin về việc di dời Thủ đô Hà Nội về khu vực Ba Vì được đưa ra Quốc hội thảo luận đã dẫn đến việc người dân đổ xô đi mua đất ở khu vực Ba Vì, nhưng sau đó lại không di chuyển nữa. Hậu quả là rất nhiều người dân đã đầu tư vào đất đai, nhà cửa, hàng quán… ở Ba Vì và các quốc lộ đổ về Ba Vì trong chu vi khoảng 20 km gây ra lãng phí và thiệt hại rất lớn cho người dân. Nếu trong trường hợp này người dân được khuyến nghị trước thì sẽ tránh được những thất thoát, lãng phí không đáng có. Mặc dù trong khuôn khổ pháp lý để xét thì việc Quốc hội đưa ra họp bàn về việc dời Thủ đô về Ba Vì là không vi phạm luật, còn việc người dân chưa có thông tin đích xác đã tự đầu tư thì sự thiệt hại không thể đổ lỗi cho các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, xét về góc độ dư luận và tâm lý xã hội thì việc có thông tin di dời Thủ đô cũng làm xáo động rất nhiều đối với nhân dân. Vì trước khi có các thông tin chính thống về việc di dời này được Quốc hội đưa ra họp bàn và công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về nội dung Quốc hội họp bàn thì đã nảy sinh những luồng dư luận phi chính thống khiến cho các hoạt động mua bán đất đai, xây dựng công trình… trong nhân dân cũng đã rất sôi động và phổ biến. Luồng dư luận phi chính thống này cũng chưa từng được cơ quan quản lý nào xác nhận về tính có thật hay không để cảnh báo người dân. Trong trường hợp này, rõ ràng nếu người dân được TCTT chính xác hay được khuyến nghị trước thì sẽ giảm thiệt hại rất nhiều.
Cá biệt, một số cơ quan nhà nước lại đưa ra những thông tin đã được xử lý khéo léo qua hoạt động thống kê và theo chiều hướng phục vụ chủ yếu cho các nhu cầu chính trị cá nhân, địa phương nên đã gây ra những sự hiểu nhầm của người dân trong hoạt động quản lý về tình hình tội phạm, tệ nạn ma túy, mại dâm, trộm cắp tài sản, sự tăng trưởng kinh tế… Điều này sẽ dẫn đến định hướng và quyết định sai lầm của người dân trong các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, dẫn đến tổn thất rất lớn cho người dân và gây lãng phí nguồn lực của đất nước.
Các hoạt động họp báo, ra thông cáo báo chí của nhiều cơ quan, tổ chức nhưng sau đó lại không tiến hành thực hiện các nội dung đã họp báo, thông cáo do tính không khả thi… cũng là những hoạt động cung cấp thông tin có khả năng gây ra sự thiệt hại lớn cho người dân và khiến dân mất niềm tin vào chính quyền.
- Yếu tố xã hội:
+ Như đã phân tích ở trên, nhà nước luôn đưa đến công chúng các thông tin về quá trình hoạt động của mình trên mọi phương diện (cả trong và ngoài nước). Về cơ bản người dân đều nắm được các thông tin hàng ngày qua chương trình thời sự. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận thực tế khách quan là trình độ dân trí, học vấn, văn minh, văn hóa của nhân dân còn rất thấp, chưa có khả năng phân tích, tổng hợp thông tin để đưa ra những nhận định chính xác về thông tin được tiếp cận. Từ đó, dẫn đến tình trạng người dân sẽ không biết cần phải làm gì để quyền lợi của mình được bảo đảm. Trong vụ việc Quốc hội họp bàn di dời Thủ đô về Ba Vì cũng cho thấy người dân chưa có đủ tri thức để xử lý thông tin. Giai đoạn đó, cả nước đang nô nức hướng tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, trên các phương tiện thông tin đại chúng đều khẳng định từ khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long đã hình thành nên một kinh đô phồn thịnh cho muôn đời, đủ sức chống đỡ với mọi kẻ thù và thúc đẩy giao lưu kinh tế bốn phương… Vậy, không có lý do gì để lại một lần nữa dân tộc ta phải chuyển kinh đô lên vùng trung du, miền núi.
+ Một số thiết chế xã hội thể hiện quyền làm chủ của người dân như Hiệp hội an toàn thông tin, Hiệp hội chống hàng giả và bảo vệ thương hiệu Việt Nam, Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng… lại chưa có hoạt động quy củ, có chiều sâu, nên khi có các thông tin về vi phạm quyền lợi người dân lại chưa có tiếng nói thiết thực, hành động hiệu quả để bảo vệ người dân. Bên cạnh đó có thể thấy còn có một số thiết chế chính trị - xã hội thể hiện quyền làm chủ của người dân như Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam…có tôn chỉ bảo vệ quyền lợi hội viên nhưng về cơ bản vẫn thiên về mục tiêu chính trị với ý nghĩa là cánh tay nối dài của Đảng nên tính bảo vệ, tính giám sát và phản biện xã hội còn nhiều hạn chế và vẫn mang nặng tính hình thức, vì trong chính bản thân hoạt động thực tiễn của các thiết chế này cũng chưa bảo đảm quyền TCTT của thành viên nên khó có thể phát huy vai trò tích cực xã hội khác.
+ Sự thiếu minh bạch trong hoạt động tài chính của Nhà nước còn phổ biến, cộng thêm vai trò thực tế của các thiết chế dân chủ còn mang nặng tính hình thức, dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền trong các hoạt động của các chủ thể này còn nhiều. Từ đó kéo theo các hoạt động của một số cơ quan Nhà nước cũng có xu hướng bất minh và chuyên quyền nên những thông tin đưa ra vẫn tồn tại phổ biến trong tình trạng không minh bạch. Ví dụ, các báo cáo tài chính hàng năm cơ bản không đảm bảo tính chân thực, dẫn đến không đảm bảo đầy đủ quyền lợi hợp pháp của người dân, mặc dù thông tin đã có sự kiểm duyệt của kiểm toán hay các thiết chế tài chính khác, nhưng do có sự cấu kết hoặc “lách luật” hoặc thông tin không kịp thời… dẫn đến người dân vẫn trở thành nạn nhân của các hoạt động bất minh này.
3. Đề xuất một số giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam
Quyền TCTT của người dân là quan trọng nhưng quan trọng hơn phải là đảm bảo tiếp cận các thông tin chuẩn xác, kịp thời, hiệu quả. Nếu thông tin nhiều, đầy đủ nhưng không chuẩn xác, chưa được phân tích đánh giá và không do ai chịu trách nhiệm thì cũng trở thành những thông tin không cần thiết cho người dân. Vì vậy, để hạn chế các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quyền TCTT của người dân cần phải thực thi triệt để một số giải pháp sau đây:
- Xây dựng Luật TCTT theo hướng minh bạch, chịu trách nhiệm cao của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước khi cung cấp thông tin. Buộc nhóm chủ thể này trước khi thông tin phải có sự phân tích, đánh giá, thậm chí là có kết luận, khuyến nghị cụ thể trước khi đưa ra công chúng.
- Luật TCTT cần phải được xây dựng và thực thi trong cơ chế phối hợp thực hiện chặt chẽ với pháp luật về dân chủ và một số luật khác có liên quan trực tiếp đến quyền TCTT. Coi sự phối hợp này là cần thiết để đảm bảo thực thi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực TCTT. Các vi phạm trong lĩnh vực này cần phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh để răn đe.
- Tuyên truyền, giáo dục nâng cao dân trí, kiến thức pháp luật về quyền TCTT và nghĩa vụ cung cấp thông tin chuẩn xác của cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ thông tin.
- Giới hạn cụ thể một số thông tin thuộc về bí mật nhà nước mà công chúng không được yêu cầu cung cấp, không có quyền tiếp cận bằng quy định pháp luật rõ ràng, cụ thể, tránh tình trạng quy định chung chung. Công khai danh mục cụ thể về bí mật quốc gia.
- Luật TCTT không nên quy định “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”, “theo quy định của Chính phủ”, “Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản” để tránh tình trạng cơ quan hành pháp; người thực thi pháp luật, chấp hành, điều hành tự đặt ra những quy tắc có lợi cho mình và hạn chế quyền TCTT của người dân.
THIÊN THANH
Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề - Ban Tuyên giáo Trung ương
TS. Lương Văn Tuấn
Phụ trách Khoa Luật – Học viện Phụ nữ Việt Nam
(*).http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=448&LanID=1153&TabIndex=1; http://moj.gov.vn/dtvbpl/Lists/Danh%20sch%20d%20tho/View_Detail.aspx?ItemID=34
(1,3) Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948
(2) Quốc Hội, Hiến pháp năm 2013
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.76.
(5) Quốc Hội, Luật về Kế toán năm 2003
(6) Quốc Hội, Luật Nhà ở 2014
(7,9) Quốc Hội, Luật phòng, chống tham nhũng 2005
(8) Quốc Hội, Luật Tổ chức Quốc hội 2001
(10) Thủ tướng Chính phủ, Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí Ban hành kèm theo Quyết định số 25/2013/QĐ-TTg
(11) Nguyễn Phú Trọng (2011), Cương lĩnh chính trị - ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của chúng ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.62-63
(12) Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, tr.29
Danh mục Tài liệu tham khảo
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.76.
[2] Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948
[3] Quốc Hội, Hiến pháp năm 2013
[4] Thủ tướng Chính phủ, Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí Ban hành kèm theo Quyết định số 25/2013/QĐ-TTg
[5] Nguyễn Phú Trọng (2011), Cương lĩnh chính trị - ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của chúng ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.62-63
[6] Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, tr.29