Thứ Sáu, 22/11/2024
Dân số và phát triển
Thứ Hai, 14/12/2020 14:25'(GMT+7)

Quyết định số 588 của Thủ tướng về điều chỉnh mức sinh phù hợp theo 3 mục tiêu cụ thể

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Chính sách dân số của Việt Nam trong gần 60 năm qua chủ yếu là tập trung mục tiêu giảm sinh. Năm 2006, Việt Nam chính thức đạt mức sinh thay thế, tức là trung bình mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ Việt Nam có 2,1 con. Tuy nhiên, từ đó đến nay, hàng năm, mức sinh rất khác biệt giữa các vùng và các tỉnh. Trong tổng số 63 tỉnh, có 21 tỉnh có mức sinh ở mức thấp, 09 tỉnh đạt mức sinh thay thế và 33 tỉnh có mức sinh cao. Mức sinh giảm thấp sẽ tác động mạnh đến cơ cấu dân số, tỉ lệ người trẻ và người trong độ tuổi lao động ngày càng giảm, trong khi nhóm dân trên 65 tuổi ngày càng tăng.

Tỷ lệ người cao tuổi tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến an sinh xã hội và sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực thành phố và kéo theo một loạt các vấn đề khác về giáo dục, y tế, nhà ở, việc làm... Do đó, nếu không tạo ra nguồn tiết kiệm đủ lớn để chuẩn bị cho tương lai không xa khi lực lượng lao động hiện nay về hưu thì hậu quả đối với xã hội rất khó lường. Bên cạnh đó, sự chênh lệch mức sinh giữa các thành phố lớn với khu vực nông thôn cũng ở mức cao là 0,55 con. Điều này rất đáng lo ngại, vì nơi có chất lượng dân số thấp thì có mức sinh cao, còn nơi có chất lượng dân số cao thì mức sinh lại thấp. Thực tế trên đòi hỏi cần phải có cách tiếp cận khác nhau trong việc giải quyết vấn đề mức sinh đối với từng vùng, khu vực cụ thể.

Chuyển trọng tâm chính sách dân số từ Kế hoạch hóa gia đình sang Dân số và Phát triển bền vững là chủ trương toàn diện, đồng bộ các vấn đề cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số. Vì vậy, ngày 28/4/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 588/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030. Chương trình đặt mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên toàn quốc, phấn đấu tăng mức sinh ở những địa phương đang có mức sinh thấp, giảm mức sinh ở những địa phương đang có mức sinh cao, góp phần thực hiện thành công Chiến lược Dân số Việt Nam đến 2030, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững đất nước.

Nghị quyết số 21 NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới đã xác định 8 mục tiêu cụ thể đến năm 2030, trong đó mục tiêu thứ nhất là "Duy trì vững chắc mức sinh thay thế, qui mô dân số 104 triệu người".

Nhằm đưa các đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống bao gồm cả hai nội dung dân số và phát triển, đồng thời chỉ ra những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cần thực hiện từ nay đến năm 2030 để đạt các mục tiêu đã đề ra của Nghị quyết 21, ngày 22/11/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030.

Tổng tỷ suất sinh (TFR) là số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. 13 năm qua, Việt Nam duy trì TFR dưới 2,1 con - đạt mức sinh thay thế. Chiến lược đề ra 8 mục tiêu cần đạt vào năm 2030, trong đó có việc duy trì vững chắc mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng; bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10 nghìn người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số rất ít người có nguy cơ suy giảm giống nòi.

Theo kết quả cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, dân số nước ta là 96,2 triệu người, đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 15 trên thế giới. Sau 10 năm, quy mô dân số Việt Nam tăng thêm 10,4 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2009 - 2019 là 1,14%/năm. Việt Nam vẫn duy trì mức sinh ổn định trong hơn một thập kỷ qua, xu hướng sinh hai con ở Việt Nam là phổ biến. Tuy nhiên, kết quả cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 cũng cho thấy, còn 4 trên 6 vùng có mức sinh cao hơn mức sinh thay thế.

Theo ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - KHHGĐ, mức sinh khác biệt đáng kể giữa các tỉnh, giữa các vùng miền, giữa nông thôn và thành thị. Khu vực kinh tế - xã hội nhiều khó khăn thì mức sinh cao, như miền núi trung du phía Bắc và Tây Nguyên vẫn là 2,43 con; có nơi rất cao, ví dụ Yên Bái và Kon Tum cao tới 2,74 con.

Trong khi đô thị, khu vực kinh tế - xã hội phát triển thì mức sinh đã xuống thấp, như vùng Đông Nam Bộ là 1,56 con; có nơi thấp xa so với mức sinh thay thế, thí dụ TP HCM là 1,39 con. Dù đã có những điều chỉnh chính sách, quy định theo hướng làm tăng mức sinh, song ở hầu hết những nơi mức sinh đã xuống thấp, chưa có dấu hiệu tăng mức sinh trở lại, thậm chí vẫn tiếp tục giảm, nhất là các tỉnh phía Nam. 

Ngày 28/4/2020 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định số 588/QĐ-TTg Phê duyệt "Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030". Theo đó, mục tiêu của chương trình là duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên toàn quốc, phấn đấu tăng mức sinh ở những địa phương đang có mức sinh thấp, giảm mức sinh ở những địa phương đang có mức sinh cao góp phần thực hiện thành công Chiến lược Dân số Việt Nam đến 2030, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững đất nước.

Mục tiêu cụ thể, Việt Nam phấn đấu đến năm 2030, tăng 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có dưới 2 con); giảm 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh cao (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có trên 2,2 con); duy trì kết quả ở những tỉnh, thành phố đã đạt mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có từ 2 – 2,2 con).

Chính sách Dân số luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn đề hàng đầu tác động đến kinh tế xã hội của quốc gia. Thực hiện tốt chính sách dân số là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Song, người dân nói chung và người lao động nói riêng cần hiểu rằng chính sách được đưa ra dưới góc độ quản lý nhà nước, với mong muốn tạo ra một nền dân số cân bằng, nâng cao chất lượng dân số.

Do đó, chính sách điều chỉnh mức sinh chỉ mang tính chất thúc đẩy và khuyến khích chứ không có ý nghĩa bắt buộc. Cùng với các chính sách của Đảng và nhà nước nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của công nhân lao động như xây dựng các thiết chế ở cơ sở: đáp ứng những nhu cầu tối thiểu về nhà ở, nhà trẻ, chăm sóc y tế, mua sắm các vật dụng thiết yếu, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, các hoạt động văn hóa thể thao…mỗi người lao động tùy vào điều kiện và kế hoạch của cá nhân, gia đình để quyết định việc kết hôn, sinh con, đảm bảo chăm sóc, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc; đồng thời thể hiện trách nhiệm của công dân đối với xã hội, với cộng đồng, góp phần xây dựng và phát triển bền vững đất nước./.

 DANH MỤC CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ THEO VÙNG MỨC SINH

1. Vùng mức sinh thấp gồm 21 tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Hậu Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Khánh Hòa, Long An, Bạc Liêu, Tây Ninh, Sóc Trăng, Cà Mau, Đồng Nai, Bình Thuận, Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang, Bến Tre, Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Kiên Giang.

2. Vùng mức sinh cao gồm 33 tỉnh, thành phố: Hà Tĩnh, Lai Châu, Quảng Trị, Yên Bái, Điện Biên, Nghệ An, Tuyên Quang, Ninh Bình, Sơn La, Bắc Ninh, Nam Định, Hà Giang, Bắc Giang, Thanh Hóa, Phú Thọ, Kon Tum, Hòa Bình, Đăk Nông, Cao Bằng, Quảng Bình, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Gia Lai, Thái Nguyên, Hưng Yên, Đăk Lắk, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Hà Nam và Hải Dương.

3. Vùng mức sinh thay thế gồm 9 tỉnh, thành phố: Ninh Thuận, Quảng Ninh, Bình Định, Lâm Đồng, Phú Yên, Trà Vinh, Hải Phòng, Hà Nội và Bình Phước.

(Ban hành kèm theo Quyết định 588/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ)

Thanh Xuân

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất