Song song với bảo tồn, việc phát huy sáng tạo sẽ đem lại sức sống mới,
khiến di sản gần gũi hơn với cuộc sống, góp phần phát huy, lan tỏa giá
trị di sản và phát triển công nghiệp văn hóa. Nhưng sáng tạo thế nào để
không làm tổn hại, biến dạng di sản, không làm cộng đồng hiểu sai giá
trị di sản, ảnh hưởng tiêu cực đến chủ thể di sản là vấn đề đang bức
thiết đặt ra.
ĐÒI HỎI TẤT YẾU CỦA CUỘC SỐNG
Những
năm gần đây, các hoạt động sáng tạo, phát huy giá trị di sản đã và đang
diễn ra sôi động, đem lại giá trị kinh tế thông qua các sản phẩm công
nghiệp văn hóa; đồng thời, khẳng định bản sắc dân tộc trong các sản
phẩm, tác phẩm đương đại.
Nhưng
nhận thức về sáng tạo, phát huy giá trị di sản lại chưa theo kịp thực
tế. Mỗi khi có những sản phẩm, tác phẩm hình thành trên cơ sở sáng tạo
di sản lại xuất hiện nhiều ý kiến trái chiều. Do đó, rất cần những nhận
thức mới và các giải pháp “khơi dòng” cho hoạt động này.
Nhiều
người vẫn còn nhớ, năm 2016, khi vở diễn Tứ phủ của đạo diễn Việt Tú
được công diễn trên sân khấu, dư luận đã xuất hiện nhiều ý kiến khác
nhau. Bên cạnh ý kiến ủng hộ, không ít người đã e ngại đó là hành vi
“sân khấu hóa” một loại hình di sản văn hóa phi vật thể. Trong tín
ngưỡng thờ Mẫu, hầu đồng là nghi lễ quan trọng, thực hiện trong không
gian linh thiêng ở những đền, phủ thờ Mẫu. Theo quan niệm dân gian, các
vị thánh sẽ “giáng” (nhập) vào thanh đồng.
Vở diễn Tứ phủ đã
khai thác ba giá đồng tiêu biểu: Giá đệ nhị, giá Ông Hoàng Mười, giá Cô
bé Thượng ngàn trong 36 giá đồng để trình diễn trên sân khấu. Đạo diễn
và đơn vị sản xuất đã đầu tư hết sức cầu kỳ, từ sắp đặt không gian, cho
đến dựng cảnh sân khấu và các bộ trang phục của các diễn viên.
Dù
ban đầu có nhiều nghi ngại, song sau đó, thành công của vở diễn Tứ phủ ở
trong nước và nước ngoài khiến nhiều người đã thay đổi tư duy, thừa
nhận tính hợp lý và giá trị nghệ thuật của vở diễn. Vở diễn Tứ phủ đã
được nhiều chuyên gia đánh giá là một hình thức sáng tạo đáng khích lệ
với di sản Tín ngưỡng thờ Mẫu. Trong đó, đạo diễn và các diễn viên lược
đi yếu tố tâm linh, chú trọng khai thác phần diễn xướng, âm nhạc trong
hầu đồng.
Tương tự như Tín ngưỡng thờ Mẫu, cồng chiêng Tây
Nguyên vốn được xem là phương tiện để đồng bào giao tiếp với thần linh
trong các lễ hội. Cụ thể, tương ứng với một nghi lễ, sẽ có những bản
cồng chiêng riêng. Các nghi lễ lớn như đâm trâu, lễ bỏ mả hay lễ cúng
bến nước, lễ cúng cơm mới, lễ dựng nhà, lễ thổi tai… đều có bản nhạc
riêng.
Theo quan điểm bảo tồn thuần túy trước đây, nếu tách rời
các yếu tố này khỏi không gian diễn xướng là các nghi lễ, các lễ hội thì
đã được coi là “có vấn đề”. Tuy nhiên, để quảng bá, giới thiệu di sản
không phải lúc nào cũng có thể đợi đến khi lễ hội hay các nghi lễ tâm
linh của đồng bào diễn ra. Sử dụng những trích đoạn phù hợp rồi đưa vào
các không gian phục vụ du lịch sẽ góp phần lan tỏa những giá trị văn hóa
đặc sắc của di sản đến cộng đồng.
Gần đây, một số nghệ nhân còn
sáng tác những bài chiêng mới. Khi đó, cồng chiêng được sử dụng đơn
thuần như một loại nhạc cụ biểu diễn. Đó cũng chính là sáng tạo di sản.
Dù có những ý kiến trái chiều, nhưng đến nay, rõ ràng không thể phủ nhận
sự lan tỏa, phổ biến của cồng chiêng Tây Nguyên trong cộng đồng và xã
hội một phần là nhờ chính những đội biểu diễn cồng chiêng phục vụ du
lịch. Chưa kể nguồn thu từ du lịch giúp người dân ổn định cuộc sống,
đồng thời thêm gắn bó, có trách nhiệm hơn với di sản của quê hương mình.
Lĩnh vực di sản văn hóa vật thể, cụ thể là các di tích, việc
sáng tạo tưởng chừng là điều xa lạ, khi di tích phải bảo tồn nguyên
trạng, nhưng thực tế, những hoạt động sáng tạo đã và đem lại cho di tích
một sinh khí mới. Như di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) từng nhiều
năm hoạt động gần như đóng khung với cách khai thác: “Sáng mở-tối đóng”
để phục vụ khách tham quan, thì hiện nay, di tích đã chuyển mình thành
một không gian văn hóa, là nơi diễn ra nhiều hoạt động tương tác với
cộng đồng để truyền tải, lan tỏa giá trị văn hóa, truyền thống hiếu học
đến cộng đồng.
Trung tâm Hoạt động Văn hóa, khoa học Văn
Miếu-Quốc Tử Giám đã tổ chức nhiều cuộc thi ý nghĩa như: Sáng tác về
thầy giáo Chu Văn An, ký họa Văn Miếu - Quốc Tử Giám, ra mắt dự án Không
gian văn hóa Quốc Tử Giám, tọa đàm khoa học… Đặc biệt, trung tâm tổ chức
nhiều chương trình giáo dục di sản cho học sinh thông qua những hoạt
động vừa học, vừa chơi. Những hoạt động này đã thay đổi hẳn tính chất
hoạt động của một di tích.
Mới đây nhất, trung tâm triển khai
một dự án đi tìm sự kết hợp giữa nghệ thuật thư pháp và graffiti. Đây là
lần đầu tiên một loại hình nghệ thuật cổ truyền của phương Đông, loại
hình nghệ thuật gắn với các bậc túc Nho hay chữ “gặp gỡ” tìm tiếng nói
chung với nghệ thuật đường phố, có nguồn gốc từ phương Tây như graffiti.
Dự kiến, những sáng tác trên cơ sở kết hợp hai loại hình tưởng như đối
lập nhau này sẽ ra mắt vào tháng 8/2022.
Cũng ở Hà Nội, một di
tích đã chuyển mình thành một không gian sáng tạo thu hút nhiều du khách
tìm đến là đình Nam Hương nằm trên phố Hàng Trống, nơi có dòng tranh
dân gian Hàng Trống nổi tiếng. Sau khi được tu bổ, cải tạo, tầng 2 của
đình Nam Hương là không gian tâm linh và tầng 1 nay trở thành không gian
tương tác, triển lãm, giới thiệu những hoạt động văn hóa truyền thống.
Đây
là nơi gặp gỡ, chia sẻ kiến thức giữa nghệ nhân tranh dân gian Hàng
Trống Lê Đình Nghiên với sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Hà Nội trong
dự án “Từ truyền thống đến truyền thống”. Sản phẩm của dự án là hàng
chục bức tranh sử dụng chất liệu sơn mài, lụa lấy cảm hứng từ tranh Hàng
Trống, khai thác các họa tiết tranh Hàng Trống.
Trong năm 2022,
dự án này được nối tiếp bằng những sáng tác mới, được trưng bày trong
dự án “Hổ dạo phố”. Những tác phẩm tranh lụa, tranh sơn mài khai thác
những góc cạnh khác nhau của hình tượng hổ trong tranh Hàng Trống vào
sáng tác mới. Tương tự, nhiều di tích như: Hoàng thành Thăng Long, Thành
cổ Cổ Loa… không đơn thuần hoạt động như những di tích, mà là nơi
thường xuyên diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục di sản. Những
hoạt động này giúp di sản trở nên sống động, gần gũi với cộng đồng.
Thực
tế, nhiều hoạt động sáng tạo di sản trong thời gian đầu thường bị dư
luận phản ứng, nghi ngờ về thành công hay lo ngại về việc “sân khấu hóa”
hay làm “biến dạng” di sản. Nguyên nhân của tình trạng này là do từ lâu
khi nhiều người thường “đóng đinh” di sản với khái niệm bảo tồn. Trên
thực tế, trong suốt tiến trình lịch sử của mình, bất kỳ di sản nào cũng
trải qua quá trình hình thành, phát triển.
Di sản quan họ Bắc
Ninh không có hàng chục làn điệu, hàng nghìn bài, với các lề lối sinh
hoạt ngay từ khi ra đời. Hệ thống làn điệu, bài hát, các lề lối quan họ
được bồi đắp qua năm tháng. Quá trình đó chính là sự sáng tạo của chủ
thể di sản. Điều này còn rõ nét đối với những di sản là tri thức dân
gian ở các làng nghề. Quá trình lao động, sáng tạo giúp cộng đồng tích
lũy kiến thức, từ đó, có những điều chỉnh về kiểu dáng, mẫu mã qua từng
thời kỳ khác nhau.
Làng gốm cổ Bát Tràng cũng là một thí dụ. Để
có những nước men, mẫu gốm chinh phục trong nước và quốc tế, gần 10 thế
kỷ tồn tại là một quá trình sáng tạo không ngừng. Nếu chỉ duy trì những
mẫu mã cổ, thì chắc chắn, gốm Bát Tràng không thích ứng được với cuộc
sống hiện đại ngày nay. Hay với tranh làng Sình (Huế) vốn là dòng tranh
tâm linh. Nhưng những sáng tạo của nghệ nhân làng tranh đã giúp tranh
làng Sình trở thành một sản phẩm lưu niệm hấp dẫn cho xứ Huế.
Nhìn
sâu hơn vào lịch sử có thể thấy rằng, sáng tạo không phải điều quá mới
mẻ nhưng sáng tạo di sản trong quá khứ và trong những năm gần đây đã có
sự khác biệt lớn. Mỗi sự thay đổi, sáng tạo trong quá khứ, mất hàng
chục, thậm chí hàng trăm năm. Trong thời đại công nghệ 4.0 hôm nay, mỗi
chủ thể đều tiếp cận nhận được thông tin đa chiều, nhanh chóng, tương
tác mạnh mẽ với các luồng văn hóa khác nhau trên thế giới với tốc độ
chóng mặt.
Điều này khiến các nghệ sĩ, nghệ nhân tích hợp các
giá trị văn hóa mới vào các sản phẩm cũ nhanh chóng và có chủ đích rõ
ràng hơn. Phương thức sáng tạo cũng có những thay đổi. Nếu như trước
đây, giao lưu văn hóa chưa mạnh mẽ, sự sáng tạo chủ yếu nằm trong khuôn
khổ kế thừa, tiếp nối, thì ngày nay, phương thức sáng tạo di sản đa dạng
hơn với các thủ pháp được ứng dụng phổ biến như: Mô phỏng hóa; nghệ
thuật hóa; kết nối, xâu chuỗi các di sản, khai thác một số yếu tố của di
sản để tạo ra sản phẩm, tác phẩm mới; sử dụng những kỹ thuật cổ truyền
để tạo sản phẩm, tác phẩm; tái hiện, trình diễn; tích hợp những hoạt
động, những giá trị mới vào di sản…
Trong số này, có những tác
phẩm nghệ thuật thành công trên cơ sở ứng dụng tổng hợp nhiều thủ pháp,
vừa sân khấu hóa, vừa khai thác một số loại hình di sản, vừa “trộn” các
loại hình di sản để tạo ra sản phẩm, tác phẩm như các vở diễn thực cảnh:
Tinh hoa Bắc Bộ, Ký ức Hội An. Những vở diễn này khai thác những giá
trị di sản của các tiểu vùng văn hóa, dung chứa nhiều loại hình văn hóa
trong một vở diễn, đem đến công chúng những trải nghiệm đắt giá cả về
nghệ thuật lẫn giá trị kinh tế.
Bên cạnh đó, các di sản xưa kia
thường mang tính cộng đồng, những sáng tạo cũng thuộc về tác giả là cộng
đồng thì ngày nay, những sáng tạo thường mang đậm tính cá nhân.
Chính
phủ đã phê duyệt “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Công nghiệp văn hóa được
xác định gồm các lĩnh vực: Quảng cáo; kiến trúc; phần mềm và các trò
chơi giải trí; thủ công mỹ nghệ; thiết kế; điện ảnh; xuất bản; thời
trang; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; truyền
hình và phát thanh; du lịch văn hóa. Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021
cũng nhấn mạnh yêu cầu gìn giữ bản sắc văn hóa, phát triển công nghiệp
văn hóa.
Điều này đang đặt ra những yêu cầu nhận thức và nhiệm
vụ quan trọng đối với sáng tạo di sản. Bởi chỉ có sáng tạo di sản, chúng
ta mới có thể tạo ra những sản phẩm, tác phẩm của công nghiệp văn hóa
mang bản sắc; đồng thời, lại có thể gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa.
Mặt khác, do sự thay đổi về “tốc độ” sáng tạo, các thủ pháp sáng tạo
cũng như yêu cầu về dấu ấn thương hiệu, dấu ấn cá nhân, sáng tạo di sản
rất dễ dẫn đến nguy cơ làm sai lệch di sản, thay đổi nhận thức của công
chúng về di sản nếu không có phương pháp đúng, nếu không định hình một
“không gian” đối với loại hình sáng tạo này.
Các liền chị thị trấn Lim, huyện Tiên Du (Bắc Ninh) truyền dạy quan họ cho thế hệ trẻ.
ĐỔI MỚI SÁNG TẠO THÍCH ỨNG VỚI PHÁT TRIỂN TIẾP NỐI DI SẢN
Thời
gian gần đây, việc khai thác tranh dân gian vào mỹ thuật ứng dụng và
sáng tác nghệ thuật ngày càng phổ biến hơn, nhất là trong giới trẻ.
Nhiều nhóm bạn trẻ đã ứng dụng tranh Hàng Trống, tranh Ðông Hồ vào thiết
kế bao bì, thiết kế thời trang; hay "vẽ lại" tranh Hàng Trống bằng chất
liệu và góc nhìn mới… Có một hoạ sĩ nổi danh đã rất thành công khi chú
trọng khai thác những hình tượng, họa tiết tranh dân gian để đưa vào tác
phẩm của mình. Với tranh Hàng Trống, là hình tượng thần giữ cửa, hổ, cá
chép, công, các họa tiết hoa lá...; với tranh Ðông Hồ là hình ảnh quen
thuộc của cậu bé ôm gà, cô bé ôm vịt, gà trống, lợn đàn, đám cưới
chuột... và nhiều họa tiết khác được khai thác với mật độ dày đặc để đưa
vào tranh. Ðiều này đã giúp tác giả tạo nên một phong cách riêng, thu
hút được nhiều nhà sưu tập tranh trong nước và nước ngoài, góp phần đưa
nét đẹp của tranh dân gian Việt Nam đến với cộng đồng.
Tuy nhiên,
bên cạnh nhiều thành công, cũng có những sáng tạo của không ít tác giả
đã gây bức xúc trong cộng đồng và giới phê bình. Chẳng hạn, nhiều hình
ảnh tiêu biểu của nghệ thuật dân gian lại được đưa vào những bức tranh
thể hiện hình ảnh cô gái khỏa thân, hay những bức tranh trai gái trong
những tư thế dung tục. Mặc dù trong văn hóa truyền thống, có một mảng đề
tài mang tính phồn thực, nhưng cách thể hiện của người xưa thường được
thể hiện một cách tế nhị, kín đáo, mang tính tượng trưng. Ngay cả với
những tác phẩm từ thời văn minh Ðông Sơn hay tượng nhà mồ Tây Nguyên có
tính tả thực cao về chủ đề phồn thực, nhưng những sản phẩm tạo hình này
cũng không gợi sự dung tục. Do đó, không thể lấy lý do tiếp nối truyền
thống này để biện hộ cho những "sáng tạo" cá nhân. Một số chuyên gia cho
rằng, những sáng tác này đã làm vẩn đục sự trong sáng của giá trị di
sản.
Trang phục truyền thống cũng là một di sản được nhiều bạn
trẻ quan tâm tìm cách đưa trở lại cuộc sống và đã tạo nên một trào lưu
sôi nổi. Từ trào lưu này, cộng đồng biết đến trang phục truyền thống của
người Việt không chỉ là áo dài, áo tứ thân với nữ giới, áo the, khăn
xếp với nam giới mà còn nhiều loại trang phục khác. Trong đó, những
trang phục sử dụng trong nghi lễ có tính thẩm mỹ cao. Với nữ giới, mẫu
được nhiều người ưa thích là áo nhật bình, nam giới là áo tấc, áo dài
ngũ thân tay chẽn... Trang phục cổ truyền thường kín đáo, mang vẻ đẹp
tinh tế, nhã nhặn. Tuy vậy, những kiểu quần áo sang trọng lại thường bất
tiện vì "quần chùng áo dài". Ði kèm với trào lưu này, là một trào lưu
"cổ phục cách tân". Trào lưu này đã làm xuất hiện không ít "thảm họa cổ
phục". Ðiển hình của những thảm họa cổ phục là sự "cắt xẻ" quá táo bạo,
khiến cổ phục trở thành những trang phục cũn cỡn, hở hang. Chưa kể, việc
phối hợp nhiều đường nét trang trí kiểu phương Tây cũng khiến trang
phục trở nên kệch cỡm.
So với nhiều loại hình di sản khác, dân
ca quan họ trải qua một quá trình sáng tạo liên tục và lâu dài, ngay cả
trong thời kỳ di sản văn hóa chưa được quan tâm như thời kỳ chiến tranh
hay bao cấp. Trong đó, có quãng thời gian không ít nhạc sĩ (cả chuyên
nghiệp lẫn nghiệp dư) thi nhau đặt lời mới cho quan họ. Cùng với đó là
sự ra đời của "quan họ đoàn", "quan họ đài" làm thay đổi không ít sinh
hoạt văn hóa quan họ. Quan họ vốn là một sinh hoạt văn hóa dân gian, gắn
trực tiếp với đời sống người dân vùng Kinh Bắc xưa. "Quan họ đoàn",
"quan họ đài" thực chất là sự chuyên nghiệp hóa. Người hát "quan họ
đoàn" là những nghệ sĩ chuyên nghiệp, không phải là nghệ nhân dân gian.
Cần nhớ rằng, quan họ Bắc Ninh được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật
thể đại diện của nhân loại không phải chỉ ở yếu tố âm nhạc, mà là toàn
bộ không gian sinh hoạt văn hóa quan họ, từ những phong tục, tập quán,
lề lối quy định, rồi mới đến các câu ca, làn điệu. Thế nhưng, sự lạm
dụng "quan họ biểu diễn", "quan họ sân khấu"-vốn chỉ khai thác yếu tố âm
nhạc, được thực hiện bởi ca sĩ chuyên nghiệp-khiến không ít người hiểu
lầm về văn hóa quan họ. Thậm chí, đây cũng là tác nhân khiến quan họ cổ
dần mai một, khi nhiều người mải chạy theo "quan họ biểu diễn" mà không
tìm hiểu quan họ "nguyên bản". Chưa kể không ít bài quan họ lời mới cũng
không kế thừa được sự tinh tế, ý nhị trong các câu ca xưa.
Sáng
tạo không chỉ giúp đưa di sản gần gũi với cộng đồng mà còn là một nhu
cầu bức thiết trong phát triển công nghiệp văn hóa ở nhiều lĩnh vực, từ
mỹ thuật đến âm nhạc hay du lịch văn hóa. Nếu tạo ra những sản phẩm mới
có tính kế thừa, phát huy được giá trị văn hóa truyền thống, thì đó được
coi là sáng tạo. Ngược lại, nó sẽ làm biến dạng, làm giảm giá trị di
sản. Sáng tạo không phải một hoạt động có tính định lượng để dễ dàng đưa
ra một "giới hạn", song từ những thí dụ nêu trên cho thấy, việc cần
thiết phải có sự định hướng cho hoạt động sáng tạo di sản.
Trước
hết, cần phải coi bảo tồn di sản gốc là nền tảng cho quá trình sáng tạo,
sáng tạo tiến hành song song với bảo tồn. Việc bảo tồn sát với nguyên
gốc nhất giúp chúng ta giữ được nền tảng căn bản của di sản, là cơ sở để
nhận diện những thay đổi, nhất là những biến đổi theo chiều hướng không
tích cực của di sản. Một cái gốc vững vàng, sẽ tạo tiền đề cho những
"cành", những "lá" phát triển mạnh mẽ. Ðây chính là bài học mà Bắc Ninh
đang nỗ lực thực hiện để bảo tồn dân ca quan họ. Một thời gian chứng
kiến "quan họ biểu diễn" lấn át quan họ cổ, những năm gần đây, Bắc Ninh
đầu tư khôi phục "nhà chứa" quan họ, tìm những nghệ nhân để sưu tầm các
làn điệu, câu hát, khôi phục các canh hát cổ, khôi phục quan họ "mộc"
không có nhạc đệm. Khi đó, "quan họ biểu diễn" đóng vai trò như một
phương tiện để quảng bá tốt hơn cho di sản, khai thác trong hoạt động du
lịch văn hóa. Ðây cũng là bài học mà các nhà quản lý có thể tham khảo
trong quá trình bảo tồn, phát huy giá trị.
Việc
sáng tạo di sản chỉ được tiến hành khi chủ thể sáng tạo nắm vững nội
hàm giá trị di sản. Bất cứ di sản nào cũng trải qua quá trình ra đời,
phát triển. Bản thân từng yếu tố cấu thành một di sản dù là vật thể hay
phi vật thể đều mang những giá trị, ý nghĩa hay những câu chuyện riêng.
Hoạt động sáng tạo thường chỉ khai thác một số yếu tố cấu thành của di
sản. Tuy nhiên việc hiểu rõ các giá trị của di sản sẽ giúp chủ thể tránh
được việc khai thác, ứng dụng di sản một cách tùy tiện dẫn đến sai lạc,
không có tính kế thừa. Chẳng hạn, việc đem một bản nhạc có tính thiêng,
trong các nghi lễ quan trọng của cồng chiêng Tây Nguyên; việc đem một
bài hát thờ trong quan họ để biểu diễn phục vụ khách du lịch sẽ làm ảnh
hưởng đến tinh thần của di sản, khiến cộng đồng nhận thức sai lạc về di
sản.
Mỗi di sản đều nằm trong dòng chảy chung của văn hóa dân
tộc. Do đó, bên cạnh nắm vững nội hàm giá trị của di sản cụ thể, còn
phải có nhận thức sâu sắc về những giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc.
Nếu hai yếu tố nêu trên là điều kiện cần, thì đây là điều kiện đủ để
sáng tạo di sản bảo đảm được yếu tố kế thừa, phát huy giá trị văn hóa cổ
truyền, hình thành nên những giá trị văn hóa mới, có tính dân tộc và
tính thời đại. Trong bối cảnh ngày nay, văn hóa Việt va chạm với nhiều
dòng chảy văn hóa khác ngày một mạnh mẽ hơn. Những dòng chảy văn hóa mới
có thể làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc, tuy nhiên cũng có những yếu
tố không phù hợp truyền thống văn hóa. Việc nhận thức sâu sắc về giá trị
cốt lõi của văn hóa dân tộc là cơ sở để các nghệ sĩ, nghệ nhân tiếp
nhận các luồng văn hóa thế giới một cách chọn lọc, tìm ra những yếu tố
phù hợp để tạo ra tác phẩm, sản phẩm mới góp phần làm phong phú và nâng
tầm di sản.
Ðối với di sản văn hóa vật thể, việc tích hợp những
sáng tạo phải được lựa chọn phù hợp lịch sử, bối cảnh, không gian của di
sản. Các hoạt động sáng tạo được tích hợp nên là những hoạt động văn
hóa truyền thống, sáng tạo trên nền tảng văn hóa truyền thống. Trước
đây, Văn Miếu-Quốc Tử Giám từng có bài học xương máu khi một cuộc triển
lãm nghệ thuật sắp đặt đương đại tại đây phải đóng cửa vì không phù hợp,
thậm chí còn bị cho là phản cảm. Di sản Văn hóa thế giới Hoàng thành
Thăng Long cũng có lần là địa điểm tổ chức Festival làng nghề, nhưng
nhiều gian hàng tính "chợ" lấn át tính "hội". Rất may, các cơ quan chức
năng đã có sự chấn chỉnh kịp thời.
Trên thực tế, công nghiệp văn
hóa là sự kết hợp giữa tài năng sáng tạo, "vốn" văn hóa kết hợp với kỹ
năng kinh doanh để tạo ra sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Trong bối cảnh toàn
cầu hóa, để có tính cạnh tranh, công nghiệp văn hóa cần phải có bản sắc
riêng. Bản sắc, không gì khác hơn là xây dựng trên nền tảng văn hóa dân
tộc, trong đó có di sản. Chúng ta tự hào là mảnh đất giàu truyền thống
và đa dạng văn hóa. 54 dân tộc anh em cùng lịch sử hàng nghìn năm để tạo
ra một kho tàng vô giá về di tích, nghi lễ, lễ hội, trò chơi dân gian,
thủ công truyền thống, dân ca, dân vũ, ẩm thực, phong tục tập quán... Ðể
có sản phẩm, dịch vụ mang bản sắc, phải trải qua quá trình sáng tạo. Do
đó, việc định hình những đường hướng, khuôn khổ trong hoạt động sáng
tạo di sản là hết sức cần thiết, giúp việc sáng tạo thật sự làm "giàu"
thêm giá trị di sản, đem lại giá trị kinh tế cho xã hội, cộng đồng, tạo
ra những sản phẩm, dịch vụ mang tính dân tộc, nhưng đại diện cho thời
đại. Ðồng thời, ngăn chặn những nguy cơ có thể xảy ra như làm biến dạng,
sai lạc hoặc làm mất đi giá trị di sản./.
Giang Nam (nhandan.vn)